Bến tre nằm ở đâu

Bến Tre là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long[3], nằm cuối nguồn sông Cửu Long, tiếp giáp biển Đông với chiều dài đường biển khoảng 65 km và các tỉnh Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long. Trung tâm của tỉnh Bến Tre cách Thành phố Hồ Chí Minh 87 km về phía Tây qua tỉnh Tiền Giang và Long An[4][5]. Địa hình của Bến Tre bằng phẳng, có độ cao trung bình từ 1 đến 2 mét so với mực nước biển, thấp dần từ tây bắc xuống đông nam, độ cao chênh lệch khá lớn, tối đa là 3,5 m. Khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa mưa thường kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, các tháng còn lại là mùa khô. Nhiệt độ trung bình năm từ 26oC - 27oC. Lượng mưa trung bình năm từ 1.250 - 1.500 mm[6]. Trước kia tỉnh Bến Tre vùng hoang vu, một thời gian sau đó có một vài nhóm người đến định cư và thường tập trung nơi đất cao trên các giồng các ven biển, hoặc dọc theo các đê sông, rạch, thuận tiện cho việc đi lại, sinh sống và tránh lũ lụt. Càng ngày số người đến định cư ngày càng đông, chính sự di cư này kèm theo sự gia tăng dân số, làm cho diện tích rừng ngày càng thu hẹp[7].

Bến Tre cũng là quê hương của Đạo Dừa, với biệt danh là "Xứ Dừa". Từ thời Chiến tranh Việt Nam, Bến Tre được coi là "quê hương Đồng khởi", mở đầu cho cao trào đấu tranh vũ trang của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam chống chế độ Ngô Đình Diệm, khốc liệt nhất là trong năm 1960.

Tỉnh Bến Tre có hình rẻ quạt, đầu nhọn nằm ở thượng nguồn, với các hệ thống kênh rạch chằng chịt. Phía bắc giáp tỉnh Tiền Giang, có ranh giới chung là sông Tiền, phía tây và nam giáp tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh, có ranh giới chung là sông Cổ Chiên, phía đông giáp biển Đông với chiều dài bờ biển 65 km[8]. Bến Tre có bốn con sông lớn là Tiền Giang, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên bao bọc đồng thời chia Bến Tre thành ba phần là cù lao An Hóa, cù lao Bảo và cù lao Minh phù sa màu mỡ, cây trái sum suê[9]...
Điểm cực Nam nằm trên vĩ độ 9o48’ Bắc, cực Bắc nằm trên vĩ độ 10o20’ Bắc, cực Đông nằm trên kinh độ 106o48’ Đông và điểm cực Tây nằm trên kinh độ 105o57’ Đông[10].

Cồn Phụng nằm giữa sông Tiền

Bến Tre nằm trong miền khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nhưng lại nằm ngoài ảnh hưởng của gió mùa cực đới, nên nhiệt độ cao, ít biến đổi trong năm, nhiệt độ trung bình hằng năm từ 26°C – 27°C. Tỉnh Bến Tre chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau và gió mùa tây nam từ tháng 5 đến tháng 11, giữa 2 mùa này thời kỳ chuyển tiếp có hướng gió thay đổi vào các tháng 11 và tháng 4 tạo nên 2 mùa rõ rệt. Mùa gió đông bắc là thời kỳ khô hạn, mùa gió tây nam là thời kỳ mưa ẩm. Lượng mưa trung bình hằng năm từ 1.250 mm – 1.500 mm. Trong mùa khô, lượng mưa vào khoảng 2 đến 6% tổng lượng mưa cả năm. Khí hậu Bến Tre cũng cho thấy thích hợp với nhiều loại cây trồng. Tuy nhiên, ngoài thuận lợi trên, Bến Tre cũng gặp những khó khăn do thời tiết nóng ẩm nên thường có nạn sâu bệnh, dịch bệnh, và nấm mốc phát sinh, phát triển quanh năm. Trở ngại đáng kể trong nông nghiệp là vào mùa khô, lượng nước từ thượng nguồn đổ về giảm nhiều và gió chướng mạnh đưa nước biển sâu vào nội địa, làm ảnh hưởng đến năng suất cây trồng đối với các huyện gần phía biển và ven biển[11]. Bến tre nằm ở hạ lưu sông Mekong, giáp với biển Đông, với mạng lưới sông ngòi chằng chịt có tổng chiều dài xấp xỉ 6.000 km, trong đó có sông Cổ Chiên dài 82 km, sông Hàm Luông dài 71 km, sông Ba Lai dài 59 km, sông Mỹ Tho dài 83 km. Hệ thống sông ngòi ở Bến Tre rất thuận lợi về giao thông đường thủy, nguồn thủy sản phong phú, nước tưới cho cây trồng ít gặp khó khăn, tuy nhiên cũng gây trở ngại đáng kể cho giao thông đường bộ, cũng như việc cấp nước vào mùa khô, khi thủy triều biển Đông đưa mặn vào sâu trong kênh rạch vào mùa gió chướng[12].

Địa hình tỉnh Bến Tre có độ cao trung bình từ 1 - 2 mét so với mực nước biển, thấp dần từ tây bắc xuống Đông Nam, độ cao chênh lệch khá lớn, tối đa là 3,5 mét. Trong đó, Phần cao nhất thuộc khu vực huyện Chợ Lách và một phần huyện Châu Thành, độ cao tuyệt đối có nơi đạt trên 5 mét, nhưng đa số từ 3 đến 3,5 mét. Phần đất thấp độ cao trung bình khoảng 1,5 mét, tập trung tại các vùng Phước An, Phước Tú ở huyện Châu Thành hoặc Phong Phú, Phú Hòa ở huyện Giồng Trôm. Phần đất trũng, độ cao tối đa không quá 0,5 mét, phân bố ở các huyện ven biển như huyện Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú. Địa hình bờ biển của tỉnh chủ yếu là các bãi bồi rộng với thành phần chủ yếu là bùn hoặc cát. Khi triều rút, các bãi bồi nổi lên và trải rộng ra biển hàng nghìn mét, tạo thuận lợi cho nuôi trồng hải sản. Bến tre có 4 nhóm đất chính là nhóm đất cát, nhóm đất phù sa, nhóm đất phèn và nhóm đất mặn. Trong đó, nhóm đất mặn chiếm diện tích lớn nhất trong các loại đất của tỉnh 43,11%, nhóm đất phù sa chiếm 26,9% diện tích toàn tỉnh, nhóm đất phèn, chiếm khoảng 6,74% diện tích đất tự nhiên của tỉnh, nhóm đất cát chủ yếu là loại đất giồng chiếm diện tích thấp nhất 6,4% diện tích toàn tỉnh.

Đời vua Minh Mạng, miền Nam Việt Nam chia làm sáu tỉnh Vĩnh Long, Biên Hòa, Gia Định, Định Tường,An Giang và Hà Tiên. Đất Bến Tre bây giờ là phủ Hoàng Trị gồm các huyện Tân Ninh, Bảo An, Bảo Hậu và trực thuộc tỉnh Vĩnh Long. Tỉnh Bến Tre vốn là một phần của dinh Hoằng Trấn lập ra năm 1803, năm sau đổi là dinh Vĩnh Trấn. Năm 1808 dinh này lại đổi là trấn Vĩnh Thanh. Năm 1832, vua Minh Mạng bỏ trấn lập tỉnh, đất Bến Tre là phủ Hoằng An, thuộc tỉnh Vĩnh Long. Thời Pháp thuộc, Ngày 15 tháng 07 năm 1867 thành lập hạt Bến Tre. Ngày 04 tháng 12 năm 1867, tách hai huyện Tân Minh và Duy Minh của hạt Bến Tre thành lập hạt Mỏ Cày, lỵ sở đặt tại chợ Mỏ Cày. Ngày 05 tháng 06 năm 1871, hạt Bến Tre bị giải thể, nhập địa bàn vào hạt Mỏ Cày. Ngày 02 tháng 11 năm 1871, dời lỵ sở từ chợ Mỏ Cày về chợ Bến Tre nên đổi tên thành hạt Bến Tre. Ngày 16 tháng 03 năm 1872, hạt Bến Tre nhận thêm 2 tổng Minh Chánh và Minh Lý từ hạt Vĩnh Long. Ngày 25 tháng 07 năm 1877, tổng Minh Chánh bị giải thể, nhập phần đất phía Tây kinh Giằng Xây của tổng này vào tổng Minh Thuận cùng hạt. Hạt tham biện Bến Tre vào thời gian này có 21 tổng. Theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương đổi tên tất cả các hạt tham biện thành tỉnh thì từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 hạt tham biện Bến Tre trở thành tỉnh Bến Tre. Năm 1912, tỉnh thành lập 4 quận là Ba Tri, Sóc Sải, Mỏ Cày, Thạnh Phú. Từ ngày 01 tháng 01 năm 1927, quận Sóc Sải được đổi tên thành quận Châu Thành. Từ ngày 22 tháng 10 năm 1956, tỉnh Bến Tre đổi tên thành tỉnh Kiến Hòa và gồm 9 quận. Sau 30 tháng 04 năm 1975, tỉnh Kiến Hoà đổi thành tỉnh Bến Tre. Cuối năm 2004, tỉnh Bến Tre bao gồm thị xã Bến Tre và 7 huyện là Châu Thành, Chợ Lách, Mỏ Cày, Giồng Trôm, Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú. Ngày 09 tháng 02 năm 2009, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 08/NĐ - CP[13], về việc điều chỉnh địa giới hành chính xã, phường để thành lập xã, phường thuộc huyện Mỏ Cày, huyện Chợ Lách, thị xã Bến Tre[13]. Theo đó, Thành lập xã Tân Hội thuộc huyện Mỏ Cày. Thành lập xã Hưng Khánh Trung A thuộc huyện Chợ Lách. Thành lập xã Phú Mỹ thuộc huyện Chợ Lách. Thành lập phường Phú Tân thuộc thị xã Bến Tre. Thành lập huyện Mỏ Cày Bắc thuộc tỉnh Bến Tre.

Ngày 11 tháng 08 năm 2009, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số 34/NQ-CP, thành phố Bến Tre thuộc tỉnh Bến Tre được thành lập, trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Bến Tre[14]. Sau khi thành lập thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre có 9 đơn vị hành chính trực thuộc.

Dừa là cây trồng phổ biến của Bến Tre

Bến Tre cũng có diện tích trồng lúa khá lớn, do phù sa sông Cửu Long bồi đắp, đặc biệt là ở Hàm Luông. Cây lương thực chính là lúa, hoa màu phụ cũng chiếm phần quan trọng là khoai lang, bắp, và các loại rau. Mía được trồng nhiều tại các vùng đất phù sa ven sông rạch; nổi tiếng nhất là có các loại mía tại Mỏ Cày và Giồng Trôm. Diện tích trồng thuốc lá tập trung ở Mỏ Cày, nơi có loại thuốc thơm cũng nổi tiếng. Đất bồi thích hợp trồng cói.
Bến Tre có nhiều loại cây ăn trái như cam, quít, sầu riêng, chuối, chôm chôm, măng cụt, mãng cầu, xoài cát, bòn bon, khóm, vú sữa, bưởi da xanh, ... trồng nhiều ở huyện Chợ Lách, Giồng Trôm, Mỏ Cày và Châu Thành. Ngoài đặt sản là kẹo dừa, bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc. Làng nghề Cái Mơn, huyện Chợ Lách, hàng năm cung ứng cho thị trường hàng triệu giống cây ăn quả và cây cảnh nổi tiếng khắp nơi. Năm 2012, tỉnh Bến Tre đề ra mục tiêu cơ bản của năm là tăng trưởng kinh tế đạt 10%, cải thiện đời sống nhân dân, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 11%, bảo đảm an sinh xã hội, giữ vững ổn định chính trị[15].

Chợ Ba Tri

Trong 6 tháng đầu năm 2012, mặc dù kinh tế tỉnh gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn tiếp tục duy trì và phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế [GDP] đạt 6,29%, thị trường xuất khẩu được giữ vững và có bước phát triển, xuất khẩu tăng trưởng khá, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 197,72 USD. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi chuyển đổi theo hướng tăng năng xuất, chất lượng, hiệu quả, mô hình trồng xen, nuôi xen trong vườn dừa tiếp tục được triển khai và nhân rộng, dịch bệnh nguy hiểm trên gia xúc, gia cầm không xảy ra. Sản xuất công nghiệp duy trì và phát triển khá, hoạt động thương mại nội địa đáp ứng được nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nhân dân. Tổng vốn đầu tư cho toàn xã hội 5.360 tỷ đồng. Chất lượng phục vụ các ngành dịch vụ đáp ứng tốt yêu cầu.
Giải quyết việc làm, giảm nghèo, an sinh xã hội có nhiều tiến bộ, góp phần ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân. Lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục, thể dục, thể thao tiếp tục phát tiển, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tiếp tục phát triển và nâng lên về chất.[16]. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều khó khăn, phức tạp. Trong đó giá cả một số loại hàng hóa vật tư thiết yếu tăng cao, giá một số hàng nông sản như dừa, cá tra… giảm mạnh[17], dịch bệnh tôm nuôi phát sinh và gây thiệt hại lớn, sản xuất công nghiệp còn gặp nhiều khó khăn đã ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Công tác giải phóng mặt bằng một số công trình chậm ảnh hưởng đến tiến độ thi công do tình hình tranh chấp, khiếu kiện vẫn còn phức tạp, nhất là lĩnh vực tranh chấp đất đai, giải phóng mặt bằng, tình hình trật tự an toàn xã hội trên một số lĩnh vực vẫn còn diễn biến phức tạp, phạm pháp hình sự, tai nạn, tệ nạn xã hội mặc dù được kéo giảm so với cùng kỳ nhưng còn xảy ra nhiều vụ giết người, chết người, tài sản thiệt hại lớn[16].

Cánh đồng lúa ở Bến Tre

Giải quyết việc làm, giảm nghèo, an sinh xã hội có nhiều tiến bộ, góp phần ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân. Lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục, thể dục, thể thao tiếp tục phát tiển, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tiếp tục phát triển và nâng lên về chất.[16]. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều khó khăn, phức tạp. Trong đó giá cả một số loại hàng hóa vật tư thiết yếu tăng cao, giá một số hàng nông sản như dừa, cá tra… giảm mạnh[17], dịch bệnh tôm nuôi phát sinh và gây thiệt hại lớn, sản xuất công nghiệp còn gặp nhiều khó khăn đã ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Công tác giải phóng mặt bằng một số công trình chậm ảnh hưởng đến tiến độ thi công do tình hình tranh chấp, khiếu kiện vẫn còn phức tạp, nhất là lĩnh vực tranh chấp đất đai, giải phóng mặt bằng, tình hình trật tự an toàn xã hội trên một số lĩnh vực vẫn còn diễn biến phức tạp, phạm pháp hình sự, tai nạn, tệ nạn xã hội mặc dù được kéo giảm so với cùng kỳ nhưng còn xảy ra nhiều vụ giết người, chết người, tài sản thiệt hại lớn[16].

Đến tháng 10 năm 2012, Tình hình kinh tế xã hội tiếp tục phát triển, một số chỉ tiêu chủ yếu tăng khá, đạt kế hoạch và vượt so với cùng kỳ. Kinh tế tháng 10 tiếp tục có sự tăng trưởng khả quan trên tất cả các lĩnh vực và tăng so với cùng kỳ, tạo tiền đề và động lực để các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân tỉnh nhà hăng hái chăm lo sản xuất, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội của tỉnh tăng trưởng cao hơn trong những tháng còn lại của năm 2012[18]. Trong tháng 10 năm 2012, Sản xuất nông nghiệp đã thu hoạch xong vụ lúa hè thu, với tổng diện tích là 22.234 ha, giảm 3,11% so cùng kỳ nhưng năng suất bình quân 47,32 tạ/ha, tăng 1,7% so cùng kỳ. Vụ thu đông, toàn tỉnh đã xuống giống khoảng 23.937 ha, đạt 93,9% kế hoạch, giảm 5,3% so cùng kỳ và vụ Mùa đã xuống giống 9.245 ha, đạt 110% kế hoạch và tăng 7% so cùng kỳ. Nuôi trồng thủy sản đã thả giống khoảng 28.867 ha tôm sú, giảm 2,8% so cùng kỳ. Diện tích nuôi cá tra thâm canh đã thả giống ước khoảng 700 ha, sản lượng thu hoạch ước đạt 141.331 tấn.Tình hình nuôi nghêu sò phát triển thuận lợi, sản lượng thu hoạch ước khoảng 16.596 tấn. Hoạt động khai thác thủy sản gặp khó khăn do bị ảnh hưởng của thời tiết và giá xăng dầu tăng nhưng nhờ trúng mùa cá ngừ và cá nục nên sản lượng khai thác thủy sản đạt 13.563 tấn, tăng 6,39% so với tháng trước.

Làng trồng hoa, cây cảnh ở Chợ Lách

Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp tăng 15,57% so với tháng trước, giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 404,5 tỷ đồng, luỹ kế 10 tháng đầu năm đạt 4.271 tỷ đồng, đạt 80,1% kế hoạch, tăng 22,1% so cùng kỳ. Khối lượng vận chuyển hàng hóa trong tháng ước đạt 511 ngàn tấn, luân chuyển đạt 47.810 ngàn tấn-km vận chuyển hành khách ước đạt 2.708 ngàn lượt hành khách. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tương đối ổn định. Tổng vốn thực hiện trong tháng khoảng 0,4 triệu USD, bằng 20% so cùng kỳ, doanh thu xuất khẩu ước 16,5 triệu USD, tăng 65% so cùng kỳ. Tổng số lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 16.687 người, trong đó khu công nghiệp là 16.111 người. Trong tháng, đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho 19 doanh nghiệp, với tổng vốn đầu tư ban đầu 315,9 tỷ đồng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ xã hội trong tháng ước thực hiện 1.645,8 tỷ đồng. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 10 tăng 1,2% so với tháng trước, tăng 2,85% so với đầu năm và bình quân 10 tháng tăng 8,59% so với cùng kỳ, trong đó nhóm thuốc và dịch vụ y tăng mạnh 15,27%, các nhóm hàng hóa còn lại đều tăng nhẹ so với trước. Trong tháng, tỉnh đã đón và phục vụ 45.274 lượt du khách, giảm 8,96% so cùng kỳ, trong đó, khách quốc tế khoảng 19.563 lượt, giảm 10,91% so cùng kỳ. Doanh thu ước đạt 22,4 tỷ đồng.

Hoạt động xuất khẩu tháng 10 tiếp tục phát triển, đạt 37,5 triệu USD, luỹ kế 10 tháng đầu năm đạt 347,14 triệu USD, đạt 80,7% kế hoạch, tăng 18,1% so cùng kỳ. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu trong tháng là, thủy hải sản các loại 2.200 tấn, chỉ xơ dừa 7.657 tấn, hàng may mặc 3,16 triệu USD…

Tàu Douce Mekong trên kênh Chợ Lách.

Du lịch sinh thái Bến Tre có điều kiện thuận tiện để phát triển du lịch sinh thái, bởi ở đó còn giữ được nét nguyên sơ của miệt vườn, giữ được môi trường sinh thái trong lành trong màu xanh của những vườn dừa, vườn cây trái rộng lớn. Một số địa điểm du lịch có tiếng là: Cồn Phụng [Cồn Ông Đạo Dừa] thuộc xã Tân Thạch, huyện Châu Thành, nằm trên một cù lao nổi giữa sông Tiền, có các di tích của đạo Dừa với các công trình kiến trúc độc đáo. Trên Cồn Phụng còn có làng nghề với các sản phẩm từ dừa và mật ong. Cồn Ốc [Cồn Hưng Phong] thuộc xã Hưng Phong, huyện Giồng Trôm, có nhiều vườn dừa và vườn cây ăn quả. Cồn Tiên, thuộc xã Tiên Long, huyện Châu Thành, là một bãi cát đẹp. Vào ngày 5 tháng 5 âm lịch hàng năm, vùng đất này thu hút hàng ngàn du khách trong và ngoài tỉnh đến tham quan du lịch.[19] Một số người còn gọi đây là "Vũng Tàu 2".[20] Hiện nay nơi này đã được đầu tư thành nơi nuôi cá da trơn và Trai cánh đen.[21][22] Sân chim Vàm Hồ, thuộc địa phận hai xã Mỹ Hòa và Tân Xuân, huyện Ba Tri, là nơi trú ngụ của gần 500.000 con cò và vạc và các loài chim thú hoang dại khác cùng với rừng chà là và thảm thực vật phong phú gồm các loại cây ổi, so đủa, đậu ván, mãng cầu xiêm, dừa nước, đước đôi, bụp tra, chà là, ô rô, rau muống biển... Các vườn cây ăn trái Cái Mơn, thuộc xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách Bãi biển Thừa Đức thuộc Bình Đại

Ngoài ra cũng có du lịch trên sông nước và các bãi như bãi Ngao, huyện Ba Tri.

Đền thờ Nguyễn Đình Chiểu tại Ba Tri

Di tích Đền thờ Nguyễn Đình Chiểu tại Ba Tri Tại Bến Tre cũng có nhiều di tích Phật giáo hay mộ các nhân vật nổi tiếng. Các chùa nổi tiếng ở Bến Tre là chùa Hội Tôn, chùa Tuyên Linh, chùa Viên Minh. Chùa Hội Tôn Chùa được thiền sư Long Thiền dựng vào thế kỷ 18 tại ấp 8, xã Quới Sơn, huyện Châu Thành và được trùng tu vào các năm 1805, 1884, 1947 và 1992. Chùa Tuyên Linh được dựng vào năm 1861 ở ấp Tân Quới Đông B, xã Minh Đức, huyện Mõ Cày, và được tu sửa và mở rộng vào các năm 1924, 1941, 1983. Chùa Viên Minh tọa lạc ở 156, đường Nguyễn Đình Chiểu, thị xã Bến Tre, với kiến trúc hiện nay được xây từ năm 1951 đến 1959.

Các nhân vật nổi tiếng có mộ ở đây là Nguyễn Đình Chiểu, Võ Trường Toản và Phan Thanh Giản nữ tướng Nguyễn Thị Định, và lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng. Ngôi mộ của nhà bác học nổi tiếng Trương Vĩnh Ký, trước cũng ở Bến Tre [Cái Mơn - xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre], nay đã được cải táng đến Chợ Quán, thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.

Festival Dừa là một lễ hội về dừa được tổ chức tại tỉnh Bến Tre. Lễ hội đã được tổ chức qua 3 kỳ vào các năm 2009, 2010 và 2012. Hai kỳ đầu tiên được tổ chức với quy mô địa phương trong khi đó năm 2012 được tổ chức với quy mô quốc gia.[23] Festival Dừa năm 2012 mang nhiều ý nghĩa hơn với mục đích mở rộng thị trường cho các sản phẩm dừa, giao lưu công nghệ sản xuất, chế biến dừa, khuyến khích, hỗ trợ nông dân trồng dừa, xúc tiến thương mại và du lịch, quảng bá thương hiệu các sản phẩm dừa Bến Tre trong và ngoài nước.[24]

Có hai lễ hội lớn ở Bến Tre là hội đình Phú Lễ và Lễ hội nghinh Ông.[26]
Đình Phú Lễ ở ấp Phú Khương xã Phú Lễ, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, thờ Thành Hoàng Bổn Cảnh. Hàng năm lễ hội đình Phú Lễ diễn ra 2 lần: lễ Kỳ Yên vào ngày 18, ngày 19 tháng 3 âm lịch để cầu cho mưa thuận, gió hòa và lễ Cầu Bông vào ngày 9, ngày 10 tháng 11 âm lịch cầu cho mùa màng tươi tốt. Lễ hội có rước sắc thần, lễ tế Thành Hoàng, người đã có công khai khẩn giúp dân trồng trọt. Đêm có hát bội và ca nhạc tài tử. Lễ hội nghinh Ông là lễ hội phổ biến của các làng ven biển của Việt Nam, trong đó có Bến Tre. Hàng năm vào các ngày 16/6 âm lịch tại các đình đền hay miếu của các xã thuộc huyện Bình Đại, huyện Ba Tri, mở lễ hội này. Trong ngày hội tất cả tàu thuyền đánh cá đều về tập trung neo đậu để tế lễ, vui chơi và ăn uống.

Dân số trung bình vào năm 2011 của Bến Tre đạt 1.257.800 người[7], với mật độ dân số 533 người/km²[27]. Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 126.100 người[28], dân số sống tại nông thông đạt 1.131.700 người[29]. Dân số nam đạt 616.900 người[30], trong khi đó nữ đạt 640.900 người[31]. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 5,2 ‰[32]

  • Một số người nổi tiếng đã sinh sống tại Bến Tre là:
  • Nguyễn Đình Chiểu, Nhà thơ, nhà văn hóa. [tác phẩm nổi tiếng Lục Vân Tiên]
  • Võ Trường Toản [Được cải táng 1867], Nhà nho
  • Phan Thanh Giản, Quan đại thần Triều Nguyễn
  • Phan Văn Trị, Nhà thơ
  • Thái Hữu Kiểm [Ông già Ba Tri], nhân vật lịch sử nổi tiếng.
  • Nguyễn Ngọc Tương, Giáo tông chi phái Cao Đài Ban Chỉnh Đạo Bến Tre.
  • Sương Nguyệt Anh [tên thật Nguyễn Thị Xuân Khuê, con gái Nguyễn Đình Chiểu], Nữ văn sĩ.
  • Trương Vĩnh Ký, Học giả
  • Trương Tấn Bửu, Công thần Triều Nguyễn
  • Nguyễn Ngọc Nhựt [con của Giáo tông Nguyễn Ngọc Tương], Liệt sĩ kháng chiến

  • Nguyễn Ngọc Thăng [Lãnh Binh Thăng], Lãnh binh Triều Nguyễn
  • Phan Ngọc Tòng
  • Hoàng Lam
  • Huỳnh Tấn Phát, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam [1969-1976], Phó Thủ tướng, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
  • Nguyễn Thị Định [Cô Ba Định], Anh hùng trong kháng chiến chống Mỹ, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, nữ tướng đầu tiên của quân đội nhân dân Việt Nam.
  • Lê Anh Xuân [Ca Lê Hiến], Nhà thơ, chiến sĩ cách mạng
  • Trần Văn Ơn, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
  • Lê Văn Dũng, Đại tướng
  • Trương Vĩnh Trọng, Phó Thủ tướng nhiệm kỳ từ 2007-2011.
  • Trần Văn Truyền, Tổng Thanh tra Chính Phủ nhiệm kỳ từ 2007-2011.
  • Nguyễn Thị Kim Ngân, Bộ trưởng Bộ Lao Động Thương binh và Xã hội nhiệm kỳ 2007-2011, Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam từ ngày 23/07/2011 đến nay.
  • Trần Thị Trung Chiến, nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế nhiệm kỳ 2002-2007.
  • Phạm Khắc [1939-2007], nhà nhiếp ảnh, nhà quay phim, nguyên giám đốc đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh
  • Nguyễn Thành Trung, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, người ném bom dinh Độc Lập
  • Trầm Hương - nhà văn [tác giả tiểu thuyết Người đẹp Tây Đô], quê quán Lộc Thuận, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre.
  • Nguyễn Văn Hiếu [Bến Tre]: Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư , nguyên Chủ tịch tỉnh.
  • Tỉnh, Thành phố kết nghĩa 

  • Phú Thọ
  • Vĩnh Phúc
  • Thành phố Hải Phòng
  • Tp Hồ Chí Minh

  1. ^ a b c Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2011 phân theo địa phương, Theo Tổng Cục thống Kê .
  2. ^ Chủ tịch UBND Bến Tre, Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre
  3. ^ “Ben Tre”. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2010. 
  4. ^ Thông tin tổng quan tỉnh Bến Tre, Diễn Đàn Hợp Tác Kinh Tế ĐBSCL.
  5. ^ Điều kiện tự nhiên, Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
  6. ^ Giới thiệu chung về Tỉnh Bến Tre, Website thông tin Kinh tế - Xã hội tỉnh Bến Tre.
  7. ^ a b Bến Tre là một vùng hoang vu bao phủ bới rừng dày, rậm xen lẫn các trảng lau, Website thông tin Kinh tế - Xã hội tỉnh Bến Tre.
  8. ^ Vị trí tỉnh Bến Tre, Website thông tin Kinh tế - Xã hội tỉnh Bến Tre.
  9. ^ Bến Tre có bốn con sông lớn là Tiền Giang, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên bao bọc, Website thông tin Kinh tế - Xã hội tỉnh Bến Tre.
  10. ^ Diện tích Bến Tre, Theo website Tỉnh Bến Tre
  11. ^ Bến Tre nằm trong miền khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, Website thông tin Kinh tế - Xã hội tỉnh Bến Tre.
  12. ^ Bến tre Nằm ở hạ lưu sông Mekong, giáp với biển Đông, Website thông tin Kinh tế - Xã hội tỉnh Bến Tre.
  13. ^ a b Nghị định số 08/NĐ-CP của Chính phủ, Cổng thông tin Chính phủ Việt Nam.
  14. ^ Về việc thành lập thành phố Bến Tre thuộc tỉnh Bến Tre, Cổng thông tin Chính phủ Việt Nam.
  15. ^ Năm 2012, Bến Tre phấn đấu tăng trưởng kinh tế đạt 10%, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ.
  16. ^ a b Kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2012 còn nhiều khó khăn, Sở tư pháo Bến Tre.
  17. ^ Nông dân Bến Tre ồ ạt chặt dừa, Theo báo tuổi trẻ.
  18. ^ hình kinh tế - xã hội tỉnh Bến Tre trong tháng 10/2012, Website thông tin Kinh tế - Xã hội tỉnh Bến Tre.
  19. ^ “Cồn Tiên”. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2010. 
  20. ^ “Về “vương quốc trái cây” vui Tết Đoan Ngọ”. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010. 
  21. ^ “Người đi tìm ngọc trai”. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010. 
  22. ^ “Lóng lánh ngọc trai Cồn Tiên”. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010. 
  23. ^ //www.bentre.gov.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=11820&Itemid=247
  24. ^ //www.bentre.gov.vn/drp/portal/lehoidua/v-1/t-2/n/143
  25. ^ Dân số trung bình phân theo địa phương qua các năm, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
  26. ^ Trần Mạnh Thường, Nguyễn Minh Tiến. Việt Nam - Văn hóa và du lịch. 
  27. ^ Diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2011 phân theo địa phương, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
  28. ^ Dân số thành thị trung bình phân theo địa phương, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
  29. ^ Dân số nông thôn trung bình phân theo địa phương, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
  30. ^ Dân số nam trung bình phân theo địa phương, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
  31. ^ Dân số nữ trung bình phân theo địa phương, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.
  32. ^ Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương, Theo Tổng cục thống kê Việt Nam.

Video liên quan

Chủ Đề