Bạch câgu kiềm toan là bạch cầu gì năm 2024
Bạch cầu ưa axit là bạch cầu hạt (tế bào bạch cầu có chứa các hạt trong tế bào chất) có nguồn gốc từ cùng một tế bào gốc như bạch cầu đơn nhân, đại thực bào, bạch cầu trung tính và bạch cầu ưa basơ. Chúng là một thành phần của . Bạch cầu ưa axit có nhiều chức năng, bao gồm
Bạch cầu ưa acid đặc biệt quan trọng trong phòng chống các bệnh nhiễm ký sinh trùng. Tuy nhiên, mặc dù bạch cầu ưa acid thường đi kèm với nhiễm trùng giun sán và là độc tính đối với giun sán trên thực nghiệm, nhưng không có bằng chứng trực tiếp cho thấy chúng diệt ký sinh trùng trong cơ thể. Mặc dù cũng là các thực bào, bạch cầu ưa acid ít hiệu quả hơn bạch cầu trung tính trong việc giết các vi khuẩn nội bào. Bach cầu ưa axit có thể điều chỉnh phản ứng quá mẫn bằng cách làm giảm hoặc bất hoạt các chất trung gian được phóng thích từ các dưỡng bào, như histamine, leukotrienes (có thể gây co mạch và co thắt phế quản), lysophospholipids và heparin. Chứng tăng bạch cầu ưa axit kéo dài có thể gây tổn thương mô với cơ chế chưa được hiểu đầy đủ. Sản xuất bạch cầu ưa axit được điều hòa do các tế bào T thông qua sự tiết ra các yếu tố tăng trưởng tạo máu: granulocyte-macrophage colony-stimulation factor (GM-CSF), interleukin-3 (IL-3) và interleukin-5 (IL-5). Mặc dù GM-CSF và IL-3 cũng làm tăng sản xuất các tế bào tủy khác, nhưng IL-5 chỉ làm tăng sản xuất bạch cầu ưa axit. Hạt ưa axit chứa protein cơ bản chính và Protein cationic eosinophil; các protein này độc đối với một số ký sinh trùng. Những protein này gắn với heparin và trung hòa hoạt tính chống đông. Chất độc thần kinh có nguồn gốc từ bạch cầu ưa axit có thể làm tổn thương các neuron. Peroxidase của bạch càu ưa axit, khác biệt đáng kể với peroxidase của các bạch cầu hạt khác, tạo ra các gốc tự do ôxi hóa với sự hiện diện của hydrogen peroxide và halide. Tinh thể Charcot-Leyden thành phần chủ yếu là phospholipase B trong đờm, mô và phân có trong các rối loạn có tăng bạch cầu ưa axit (ví dụ như bệnh hen, viêm phổi tăng bạch cầu ưa axit). Số lượng có thể biến đổi, nhưng nhìn chung > 500/mcL (> 0.5 × 109/L) là tăng. Phân nhóm tăng bạch cầu ưa axit
Số lượng bạch cầu cũng biến thiên tỷ lệ nghịch với nồng độ cortisol huyết tương: do vây sẽ đạt đỉnh vào đêm và giảm dần đến sáng. Số lượng bạch cầu ưa axit có thể giảm do căng thẳng, do sử dụng thuốc chẹn beta hoặc corticosteroid, và đôi khi trong thời gian nhiễm vi khuẩn hoặc virut. Số lượng có thể tăng (eosinophilia) trong các chứng dị ứng, trong một số trường hợp nhiễm trùng (thường là ký sinh trùng), và do nhiều nguyên nhân khác. Nửa đời sống của bạch cầu ưa axit là 6 đến 12 giờ, hầu hết các bạch cầu ái toan nằm trong các mô (ví dụ như đường hô hấp trên, đường tiêu hóa, da, tử cung). Tình trạng phổ biến nhất liên quan đến số lượng bạch cầu ái toan thấp là hội chứng cushing. Mặc dù dữ liệu còn hạn chế nhưng đã cho thấy mối liên hệ giữa tình trạng giảm bạch cầu ái toan và thay đổi hô hấp khi nhiễm COVID-19; tuy nhiên, tình trạng tăng bạch cầu ái toan ở phổi không phải là một phần của bệnh lý phổi SARS-CoV-2 ( Bạch cầu là thành phần quan trọng của máu. Vai trò của chúng là chống lại nhiễm trùng và chúng rất cần thiết cho sức khỏe thể chất và tinh thần. Số lượng bạch cầu cao có thể cho thấy hệ thống miễn dịch đang hoạt động để tiêu diệt nhiễm trùng. Nó cũng có thể là một dấu hiệu của căng thẳng về thể chất hoặc cảm xúc. Những người bị ung thư máu cụ thể cũng có thể có số lượng bạch cầu cao. Số lượng bạch cầu thấp có thể báo hiệu rằng một chấn thương hoặc tình trạng đang phá hủy các tế bào nhanh hơn chúng đang được tạo ra hoặc cơ thể đang sản xuất quá ít tế bào trong số đó. Tế bào bạch cầu chiếm khoảng 1% tổng số tế bào máu và chúng rất cần thiết cho hoạt động bình thường của hệ thống miễn dịch. Các tế bào bạch huyết còn được gọi là bạch cầu. Tủy xương liên tục sản xuất các tế bào bạch cầu. Chúng được lưu trữ trong máu và hệ thống bạch huyết cho đến khi chúng cần thiết để chống lại nhiễm trùng hoặc bệnh tật trong cơ thể. Các chủng loạiMột số loại bạch cầu phục vụ các chức năng khác nhau. Hầu hết mọi người sẽ sản xuất khoảng 100 tỷ tế bào bạch cầu mỗi ngày. Bình thường có từ 4.000 đến 11.000 tế bào trong mỗi microlít máu, mặc dù điều này có thể thay đổi tùy theo chủng tộc. Có một số loại bạch cầu khác nhau, mỗi loại có trách nhiệm khác nhau:
Khi cần thiết, bạch cầu đơn nhân di chuyển đến các cơ quan khác, chẳng hạn như lá lách, gan, phổi và tủy xương, nơi chúng biến đổi thành một tế bào gọi là đại thực bào. Đại thực bào chịu trách nhiệm về nhiều chức năng, bao gồm loại bỏ các mô chết hoặc bị hư hỏng, tiêu diệt tế bào ung thư và điều chỉnh phản ứng miễn dịch. Nguyên nhânSự gia tăng các tế bào bạch cầu được gọi là tăng bạch cầu. Nó thường xảy ra để đáp ứng các trường hợp sau:
Trong một số trường hợp, tất cả các tế bào bạch cầu đều bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, một số người mắc một bệnh cụ thể trong đó chỉ có một loại bạch cầu bị ảnh hưởng. Nếu mức độ của một loại bạch cầu cụ thể tăng lên, điều này có thể là do một nguyên nhân cụ thể.
Đôi khi, không có nguyên nhân xác định nào làm tăng bạch cầu. Đây được gọi là hội chứng tăng bạch cầu ái toan vô căn (idiopathic hypereosinophilic syndrome). Nó có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng, chẳng hạn như tổn thương tim, phổi, gan, da và hệ thần kinh. Những người bị ảnh hưởng bởi hội chứng “idiopathic hypereosinophilic syndrome” có thể gặp các triệu chứng như:
Sự mất cân bằng khácNếu mức độ bạch cầu thấp hơn bình thường, đây có thể là dấu hiệu cho thấy người đó bị giảm hoạt động miễn dịch. Điều này có thể xảy ra do các tình trạng tương tự như HIV hoặc thuốc ức chế miễn dịch. Sự thiếu hụt tế bào bạch cầu là lý do tại sao những người mắc bệnh hoặc dùng thuốc ức chế hệ thống miễn dịch đối mặt với nguy cơ nhiễm trùng cao hơn. Sản xuất tế bào máu bất thường cũng là một đặc điểm của một số bệnh ung thư, chẳng hạn như bệnh bạch cầu và ung thư hạch. Một số tình trạng, được gọi chung là rối loạn tăng sinh tủy, có thể xảy ra trong tủy xương. Những tế bào này phát triển khi sản xuất quá nhiều tế bào máu chưa trưởng thành, dẫn đến mất cân bằng. Rối loạn tăng sinh tủy là những tình trạng hiếm gặp có thể trở thành ác tính hoặc không. Các triệu chứng và chẩn đoánTác động chính xác của số lượng bạch cầu cao phụ thuộc vào tình trạng hoặc yếu tố gây ra chúng. Sự dao động về số lượng tế bào máu có thể không gây ra bất kỳ triệu chứng nào. Sau khi nhận thấy bất kỳ triệu chứng nào, bác sĩ có thể sử dụng xét nghiệm máu để đánh giá số lượng bạch cầu và các xét nghiệm và kiểm tra thêm thường là cần thiết để xác định chính xác nguyên nhân. |