Vua quang trung chết ở đâu

Quang Trung [1753-1792] tên thật Nguyễn Huệ là vị hoàng đế thứ 2 của nhà Tây Sơn, được Thái Đức Hoàng Đế Nguyễn Nhạc thoái vị và nhường ngôi. Ông là một trong những vị tướng quân sự xuất sắc bách chiến bách thắng; nhà cai trị tài ba anh minh trong lịch sử Việt Nam.

Nắm ngôi được 3 năm đã băng hà

Nguyễn Huệ và hai người an hem của ông được biết đến với tên gọi an hem Tây Sơn – 3 lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn chấm dứt nội chiến Trịnh – Nguyễn phân tranh giữa 2 tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn ở phía Nam và nhà Trịnh ở đàng Bắc, lật độ 2 nhà này cùng triều Hậu Lê…

Quang Trung còn là người đánh bại các cuộc xâm lược Đại Việt của Đại Thanh từ phía Bắc và Xiêm La từ phía Nam. Đặc biệt ông đã trải qua hàng chục trận đánh lớn và chưa hề thua một trận nào. Đến khi ở ngôi vị hoàng đế, ông tỏ rõ tài cai trị đất nước bằng việc đề ra nhiều kế hoạch cải cách tiến bộ trong văn hóa, chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao…

Sau 20 năm liên tục chinh chiến và 3 năm trị quốc, khi tình hình đất nước bắt đầu có chuyển biến tốt, vua Quang Trung đột ngột qua đời ở tuổi 39. Cái chết của ông có điểm không rõ ràng và nhiều giai thoại kỳ lạ lưu truyền trong nhân gian.

Tương truyền, vào một buổi chiều đầu thu năm 1792, vua Quang Trung đang ngồi làm việc bỗng hoa mắt, mặt mũi tối sầm rồi mê man bất tỉnh. Đến khi tỉnh dậy, ông cho gọi trấn thủ Trần Quang Diệu về bàn bạc việc quan trọng. Nhưng việc chưa quyết xong thì bệnh tình của ông đã nguy kịch.

Tranh vẽ Quang Trung Hoàng đế.

Trước khi băng hà, hoàng đế Quang Trung căn dặn Trần Quang Diệu và quần thần: “Ta mở mang bờ cõi, khai thác đất đai, có cả cõi Nam này. Nay đau ốm, tất không khỏi được. Thái tử tư chất hơi cao nhưng tuổi còn nhỏ. Ngoài thì có quân Gia Định là quốc thù, mà Thái Đức thì tuổi già, ham dật lạc, cầu yên tạm bợ, không toan tính cái lo về sau.

Khi ta chết rồi, nội trong một tháng phải chôn cất, việc tang làm lao thảo thôi. Lũ ngươi nên hợp sức mà giúp thái tử sớm thiên đô về Vĩnh Đô để khống chế thiên hạ. Bằng không quân Gia Định kéo đến thì các ngươi không có chỗ chôn thân!”.

Đêm 16/9 /1792, Quang Trung Nguyễn Huệ qua đời, hưởng thọ 39 tuổi. Thi hài của vua Quang Trung được an táng ngay tại Phú Xuân. Sau đó Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi, đặt niên hiệu là Cảnh Thịnh, sai sứ sang nhà Thanh báo tang và xin tập phong.

Vua Càn Long tặng tên hiệu cho ông là Trung Thuần, lại thân làm một bài thơ viếng và cho một pho tượng, 300 lạng bạc để sửa sang việc tang. Sứ nhà Thanh đến tận mộ ở Linh Đường [mộ giả] thuộc huyện Thanh Trì [Hà Nội] để viếng.

Thời Cảnh Thịnh, triều đình Tây Sơn sinh ra lục đục. Nguyễn Ánh nhân thời cơ đó kéo ra đánh bại nhà Tây Sơn. Mười năm sau ngày Quang Trung qua đời, nhà Tây Sơn sụp đổ hoàn toàn.

Để trả thù, Nguyễn Ánh sai đào phá mộ Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc. Nơi đặt lăng mộ của Quang Trung cũng bị san phẳng, không cho để lại dấu tích. Bên cạnh đó các lăng mộ của gia tộc Tây Sơn ở Nghệ An và Quy Nhơn đều bị khai quật, hủy phá đến mức chỉ trơ hố huyệt sâu, khiến người sau phải gọi là "giếng huyệt".

Giai thoại kỳ lạ về cái chết

Cho đến nay, đã có nhiều giả thuyết về nguyên nhân cái chết của vua Quang Trung được đưa ra nhưng chưa giả thuyết nào có được chứng cứ xác thực, đủ sức thuyết phục. Theo Tây Sơn thực lục: “Huệ mắc bệnh nặng không chữa khỏi. Năm ấy Nguyễn Huệ mất, tóc của Huệ quăn, mặt đầy mụn, có một con mắt nhỏ nhưng cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn thì ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu”.

Tượng đài Hoàng đế Quang Trung – Nguyễn Huệ tại Bảo tàng Quang Trung Tây Sơn.

Và sau khi Quang Trung mất, vào tháng 1/1793, Quách Thế Huân cũng báo cáo với Càn Long: "Quang Trung đã chết vì bệnh".

Còn sách Ngụy Tây liệt truyện – tài liệu chính sửa của Sử quán triều Nguyễn ghi chép cái chết của vua Quang Trung rằng: “Một hôm, về chiều, Quang Trung đang ngồi bỗng xây xẩm, tối tăm, thấy một ông già đầu bạc từ trên trời xuống, mặc áo trắng, cầm gậy sắt, mắng rằng: "Ông cha người sống ở đất của Chúa, đời đời làm dân Chúa Nguyễn, sao phạm đến lăng tẩm...". Rồi lấy gậy đánh vào trán Quang Trung, mê man ngã xuống, bất tỉnh nhân sự lâu lắm. Từ đó, bệnh chuyển nặng”.

Ghi chép này có phần hư cấu đề nâng cao sự mê tín vào “thiên mệnh” của triều đình nhà Nguyễn. Các nhà nghiên cứu về sau gạt bỏ các chi tiết mê tín này thì cho rằng Quang Trung đã bị một cơn tăng huyết áp đột ngột.

Cũng có một giai thoại lưu truyền rằng: Một buổi chiều thu năm 1792, vua Quang Trung đang ngồi làm việc, bỗng hoa mắt, tối sầm mặt mũi, mê man bất tỉnh. Người xưa gọi là chứng "huyễn vận", còn ngày nay y học gọi là tai biến mạch máu não.

Bác sĩ Bùi Minh Đức qua khảo cứu các nguồn tư liệu lịch sử, kết luận rằng Nguyễn Huệ bị “Xuất huyết não dưới màng nhện; nguyên nhân tử vong: do viêm phổi sặc” [tức tràn dịch màng phổi].

Nguồn: //thoidaiplus.suckhoedoisong.vn/hoang-de-lung-danh-trong-lich-su-viet-va-cai-chet-...Nguồn: //thoidaiplus.suckhoedoisong.vn/hoang-de-lung-danh-trong-lich-su-viet-va-cai-chet-gay-ra-nhieu-tranh-cai-den-tan-bay-gio-d258750.html

Theo K.T [Tổng hợp] [thoidaiplus.suckhoedoisong.vn]

* Xin cho biết Vua Quang Trung mất khi bao nhiêu tuổi và mất vì nguyên nhân gì? Nguyễn Thị Kim Hồng, Giồng Trôm, Bến Tre

Nguyễn Huệ tức Vua Quang Trung Bắc Bình Vương, là vị hoàng đế thứ hai của nhà Tây Sơn [ở ngôi từ 1788 tới 1792]. Ông sinh năm 1753 và mất năm 1792, hưởng dương có 39 tuổi [tuổi ta là 40]. Ông là một trong những lãnh đạo chính trị tài giỏi với nhiều cải cách xây dựng đất nước, quân sự xuất sắc trong lịch sử Việt Nam với những trận đánh trong nội chiến và chống ngoại xâm chưa thất bại lần nào. Do có nhiều công lao, Nguyễn Huệ được xem là anh hùng áo vải của dân tộc Việt Nam.

Về nguyên nhân làm Quang Trung qua đời thì theo sách Ngụy Tây liệt truyện, một tài liệu chính sử của Sử quán triều Nguyễn ghi giải thích như sau:

“Một hôm, về chiều, Quang Trung đang ngồi bỗng xây xẩm, tối tăm, thấy một ông già đầu bạc từ trên trời xuống, mặc áo trắng, cầm gậy sắt, mắng rằng: “Ông cha người sống ở đất của Chúa, đời đời làm dân Chúa Nguyễn, sao phạm đến lăng tẩm...". Rồi lấy gậy đánh vào trán Quang Trung, mê man ngã xuống, bất tỉnh nhân sự lâu lắm... Từ đó, bệnh chuyển nặng..."

Sách Tây Sơn thực lục cũng có ghi "Huệ mắc bệnh nặng, chữa không khỏi...". Và sau khi Quang Trung mất, vào tháng một năm Càn Long thứ 58 [1793], Quách Thế Huân cũng báo cáo với Càn Long: "Quang Trung đã chết vì bệnh". Theo một giả thuyết được truyền lại nhiều nhất là một buổi chiều thu năm 1792, vua Quang Trung đang ngồi làm việc, bỗng hoa mắt, tối sầm mặt mũi, mê man bất tỉnh. Người xưa gọi là chứng "huyễn vận".

Gần đây BS Việt kiều Bùi Minh Đức [//vietsciences.free.fr] đã căn cứ vào các ghi chép lịch sử nhận thấy về cái chết của Vua Quang Trung có ghi nhận 9 yếu tố định bệnh quan trọng trong giai đoạn khởi đầu bệnh trạng của bệnh nhân là: Bệnh nhân còn trẻ [40 tuổi]; Đau đầu dữ dội, đột ngột; Xây xẩm, chóng mặt; Tối tăm, mắt nhìn không thấy; Hôn mê, ngất xỉu thình lình; Không vận động sức lực [khi xảy ra biến cố]; Không bị tổn thương trên đầu; Bệnh nhân tỉnh lại; Bệnh nhân không bị hôn mê dài ngày. Căn cứ vào kiến thức y học hiện đại và các tư liệu lịch sử còn lưu lại, BS Bùi Minh Đức nhận định: Vua Quang Trung mất vì hai khả năng sau đây:

- Xuất huyết não dưới màng nhện do vỡ mạch phình.

- Viêm phổi hít [Aspiration Pneumonia] dẫn đến trụy hô hấp.

* Cờ tướng có phải do người Trung Quốc nghĩ ra và có khác gì với cờ tướng ở nước ta?

Trịnh Tiến Dũng, Can Lộc, Hà Tĩnh

Theo nhà văn hóa Hữu Ngọc và Phó Tổng biên tập tạp chí Người chơi cờ thì cờ tướng không phải gốc ở Trung Quốc mà là ở Ấn Độ, từ đó lan ra Trung Á rồi tới lục địa Á Âu. Đến thế kỷ thứ 7 người Ả Rập chiếm Ba Tư, học cờ ở đó và cải tiến. Đến thế kỷ thứ 8 nhập vào châu Âu dưới hình thức cờ vua [cờ Quốc tế]. Tương truyền có một nhà thông thái theo Ấn Độ giáo phát minh ra trò chơi Saturanga [thế kỷ 5-6] là tiền thân Tượng kỳ [tên gọi cờ tướng ở Trung Quốc]. Tượng kỳ xuất hiện khoảng đời Đường- thế kỷ thứ 7.

Người Trung Quốc đã cải tiến cờ Saturanga, khiến trí tuệ hơn, trừu tượng hơn nhưng lại đơn giản hơn. Quân cờ dẹt xuống như cờ vây [do Trung Quốc phát minh]. Không dùng các ô hai màu mà dùng đường vạch, thêm con sông làm biên giới, để tránh phạm thượng nên đã thay Vua bằng Tướng. Sang Việt Nam cờ tướng có những nét Việt hóa đáng kể. Tượng kỳ là cờ voi, còn ta gọi là cờ tướng, đúng với tính chất đánh trận.

Tượng kỳ ở Trung Quốc gắn với uy quyền, chính trường, dòng tộc, trường phái. Cờ tướng ở nước ta dân gian hơn, kết hợp với lễ hội cờ người, cờ bỏi [quân gỗ đóng vào cọc tre, cắm vào lỗ]. Còn có loại cờ tướng không cần bàn cờ thường gọi là cờ mù đánh bằng óc tưởng tượng.

Còn có hình thức cờ giếng - dựng bàn bằng tre trên giếng làng, quân cờ được treo như đèn lồng. Hai đối thủ đi thuyền trong lòng giếng dùng sào móc quân đi. Còn có cả cờ bướm- quân cờ được các cô gái đóng, mỗi cô cầm hai chiếc quạt lớn trên có tên quân cờ, di chuyển như là múa. Tại các đền chùa xây trên núi ở nước ta còn thường có các bàn cờ tiên. Ở nước ta cờ tướng đã có từ trên 700 năm.

Video liên quan

Chủ Đề