Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thái Lan
Chaba Kaew [ชบาแก้ว] | ||
FAT [Thái Lan] | ||
AFC [Châu Á] | ||
AFF [Đông Nam Á] | ||
Naruphol Kaenson | ||
THA | ||
| ||
41
| ||
28 [7.2011] | ||
43 [3.2022] | ||
[Hồng Kông; 25/8/1975] | ||
[Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam; 22/9/2012] | ||
[Băng Cốc, Thái Lan; 12/12/1998] | ||
2 [Lần đầu vào năm 2015] | ||
Vòng bảng [2015, 2019] | ||
16 [Lần đầu vào năm 1975] | ||
Vô địch [1983] | ||
10 [Lần đầu vào năm 2004] | ||
Vô địch [2011, 2015, 2016, 2018] |
Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Thái Lan [tiếng Thái: ฟุตบอลหญิงทีมชาติไทย] là đội tuyển bóng đá nữ đại diện cho Thái Lan và do Hiệp hội bóng đá Thái Lan [FAT] điều hành.
Tuyển nữ Thái Lan ít nhiều thống trị khu vực với 4 lần vô địch AFF Cup và 5 lần vô địch SEA Games. Họ cũng hai lần liên tiếp giành quyền chơi vòng chung kết giải vô địch bóng đá nữ thế giới với lần đầu tiên là vào năm 2015.[2]
Đại diện nữ của Thái Lan từng đăng quang giải vô địch bóng đá nữ châu Á năm 1983 và cho đến nay đó là lần duy nhất một đội bóng cấp quốc gia của Thái Lan vô địch một giải đấu châu lục.[3][4]
Đội ngũ kỹ thuật[sửa | sửa mã nguồn]
Huân luyện viên trưởng | |
Trợ lí huấn luyện viên | |
Trợ lí huấn luyện viên | |
Huấn luyện viên thể hình | |
Huấn luyện viên thể hình | |
Chuyên gia vật lý trị liệu | |
Bác sĩ | |
Phiên dịch viên |
Các đời huấn luyện[sửa | sửa mã nguồn]
Bên dưới là những cái tên từng đảm nhiệm công việc huấn luyện tuyển nữ Thái Lan từ năm 1999 tới nay.
Cựu quản lý[sửa | sửa mã nguồn]
- Nualphan Lamsam [2007–2019]
Nói về quyết định nhận lời mời của Chủ tịch FAT Worawi Makudi để trở thành trưởng đoàn bóng đá nữ, nữ doanh nhân Nualphan Lamsam lúc đó cho biết mình không phải cầu thủ, cũng không có nhiều kiến thức về bóng đá nên tỏ ra khá do dự. Tuy nhiên, khi gặp các cầu thủ nữ, bà thấy có cảm tình và quyết định nhận trách nhiệm mới. Theo ước tính của truyền thông Thái Lan, trong 6 năm từ 2009 đến 2015, thời điểm tuyển nữ Thái Lan lần đầu tham dự World Cup, nữ tỷ phú sinh năm 1966 đã đầu tư khoảng 100 triệu bạt nhằm nâng tầm đội nhà. Không chỉ đầu tư tiền của, Lamsam còn là con người ân cần, chu đáo và dành nhiều thời gian quan tâm tới đời sống tinh thần các cầu thủ. Những cầu thủ nữ Thái Lan sau khi giải nghệ cũng được bà thu xếp công ăn, việc làm để giúp họ cũng như nhiều cầu thủ khác có thể yên tâm cống hiến cho đội tuyển. Với sự tận tâm và chu đáo của mình, Lamsam được các cầu thủ gọi với cái tên thật mật là "Madam Pang".[6] Kết thúc hành trình tại World Cup 2019, "Madam Pang" đã tuyên bố chia tay đội tuyển Thái Lan sau 12 năm gắn bó.[cần dẫn nguồn]
Thành tích[sửa | sửa mã nguồn]
Đội tuyển nữ Thái Lan đã thi đấu quốc tế từ những năm 1970, nhưng cho đến sau trận gặp Đài Loan tháng 10 năm 1981 thì những trận đấu trước đó không có trong danh mục theo dõi của FIFA.[7]
Cấp thế giới[sửa | sửa mã nguồn]
Lần đầu tham dự vòng chung kết World Cup vào năm 2015, Thái Lan dừng bước ở vòng bảng, đứng thứ ba với ba điểm sau chiến thắng Bờ Biển Ngà 3–2 cùng hai trận thúc thủ trước Đức và Na Uy. Lần thứ hai tham dự vào năm 2019, đội không có kết quả tốt như lần đầu, bị loại mà không có được điểm nào và còn thua Hoa Kỳ trận mở màn với tỷ số đậm kỷ lục của giải đấu này là 0–13 cũng như để thua Chile, đối thủ kém mình 5 bậc trên bảng xếp hạng FIFA khi ấy.[8]
1991 | Không vượt qua vòng loại | ||||||
1995 và 1999 | Không tham dự | ||||||
2003 tới 2011 | Không vượt qua vòng loại | ||||||
Vòng bảng | 3 | 1 | 0 | 2 | 3 | 10 | |
Vòng bảng | 3 | 0 | 0 | 3 | 1 | 20 | |
Chưa xác định | |||||||
Tổng | Vòng bảng | 6 | 1 | 0 | 5 | 4 | 30 |
1996 tới 2020 | Không vượt qua vòng loại | ||||||
Tổng | - | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 |
Cấp châu Á[sửa | sửa mã nguồn]
Là một thế lực của bóng đá nữ châu Á vào những năm tiên khởi, Thái Lan đoạt ngôi á quân cả ba lần đầu tiên dự giải vô địch châu Á trước khi chính thức xưng vương ngay trên sân nhà Băng Cốc tại giải đấu mà họ đăng cai năm 1983 với chiến thắng 3–0 trước Ấn Độ. Hầu hết những vòng chung kết châu lục các năm sau đó Thái Lan đều góp mặt nhưng không vượt qua được vòng bảng cho tới kỳ Asian Cup 2014, giải đấu mà họ đánh bại chủ nhà Việt Nam trong trận đấu tranh hạng năm cũng là trận tranh tấm vé dự World Cup 2015.[9] Sau chiến tích đó, Hiệp hội bóng đá Thái Lan thông báo muốn đầu tư thêm cho việc xây dựng "thế hệ vàng đầu tiên" của bóng đá nữ Thái Lan, những nữ cầu thủ vốn không được dư luận Thái quan tâm như những đồng nghiệp nam.[10]
Á quân | 4 | 3 | 0 | 1 | 10 | 5 | |
Á quân | 4 | 3 | 0 | 1 | 8 | 3 | |
1979 | Không vượt qua vòng loại | ||||||
Á quân | 5 | 3 | 0 | 2 | 6 | 8 | |
Vô địch | 6 | 6 | 0 | 0 | 25 | 1 | |
Hạng 3 | 5 | 4 | 0 | 1 | 15 | 5 | |
Vòng bảng | 3 | 0 | 0 | 3 | 1 | 12 | |
Vòng bảng | 3 | 1 | 1 | 1 | 4 | 10 | |
1993 | Không vượt qua vòng loại | ||||||
Vòng bảng | 2 | 1 | 0 | 1 | 3 | 4 | |
1997 | Không vượt qua vòng loại | ||||||
Vòng bảng | 4 | 2 | 0 | 2 | 6 | 10 | |
Vòng bảng | 4 | 2 | 0 | 2 | 5 | 9 | |
Vòng bảng | 4 | 2 | 0 | 2 | 6 | 21 | |
Vòng bảng | 4 | 1 | 0 | 3 | 2 | 26 | |
Vòng bảng | 3 | 0 | 0 | 3 | 1 | 11 | |
Vòng bảng | 3 | 1 | 0 | 2 | 2 | 7 | |
Hạng 5 | 4 | 2 | 0 | 2 | 4 | 13 | |
Hạng 4 | 5 | 2 | 1 | 2 | 12 | 11 | |
Tứ kết | 4 | 1 | 0 | 3 | 5 | 10 | |
1990 tới 1994 | Không tham dự | ||||||
Vòng bảng | 3 | 0 | 1 | 2 | 1 | 22 | |
2002 | Không tham dự | ||||||
Vòng bảng | 3 | 1 | 0 | 2 | 5 | 11 | |
Vòng bảng | 2 | 0 | 0 | 2 | 0 | 6 | |
Tứ kết | 4 | 2 | 0 | 2 | 21 | 7 | |
Tứ kết | 3 | 0 | 0 | 3 | 2 | 10 | |
Chưa xác định | |||||||
Chưa xác định | |||||||
Cấp khu vực[sửa | sửa mã nguồn]
2004 | Không tham dự | ||||||
Hạng 3 | 3 | 1 | 1 | 1 | 6 | 6 | |
Á quân | 5 | 3 | 0 | 2 | 26 | 7 | |
Hạng 3 | 5 | 3 | 0 | 2 | 22 | 4 | |
Vô địch | 5 | 5 | 0 | 0 | 22 | 4 | |
Hạng 3 | 4 | 3 | 0 | 1 | 21 | 2 | |
Vòng bảng | 4 | 2 | 1 | 1 | 12 | 3 | |
Vô địch | 5 | 4 | 0 | 1 | 27 | 7 | |
Vô địch | 5 | 3 | 1 | 1 | 15 | 4 | |
Vô địch | 6 | 6 | 0 | 0 | 37 | 5 | |
Á quân | 6 | 5 | 0 | 1 | 31 | 4 | |
Vô địch | 2 | 2 | 0 | 0 | 10 | 0 | |
Vô địch | 5 | 4 | 1 | 0 | 16 | 3 | |
Vô địch | 4 | 4 | 0 | 0 | 11 | 3 | |
Á quân | 5 | 3 | 1 | 1 | 9 | 6 | |
Hạng 3 | 4 | 2 | 0 | 2 | 11 | 8 | |
Hạng 3 | 4 | 3 | 0 | 1 | 14 | 2 | |
Vô địch | 4 | 3 | 1 | 0 | 18 | 2 | |
Á quân | 5 | 2 | 3 | 0 | 22 | 5 | |
Vô địch | 4 | 3 | 1 | 0 | 15 | 4 | |
Á quân | 4 | 3 | 1 | 0 | 13 | 4 | |
Á quân | 4 | 2 | 2 | 0 | 7 | 3 | |
Kết quả & lịch đấu[sửa | sửa mã nguồn]
2021[sửa | sửa mã nguồn]
2022[sửa | sửa mã nguồn]
2023[sửa | sửa mã nguồn]
- Thailand Fixtures and Results – Soccerway.com
Đội hình[sửa | sửa mã nguồn]
23 cầu thủ chính thức tham dự AFF Cup 2019.[11]
Từng triệu tập[sửa | sửa mã nguồn]
Chú thích:
- INJ Rút lui do chấn thương
- PRE Đội hình sơ bộ
- SUS Bị loại khỏi đội hình
- RET Đã chia tay đội tuyển quốc gia
- WD Rút lui vì lý do cá nhân
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ “Bảng xếp hạng bóng đá nữ FIFA/Coca-Cola thế giới”. FIFA. 5 tháng 8 năm 2022. Truy cập 5 tháng 8 năm 2022.
- ^ “Thailand's national women's football team makes historic entry into World Cup finals - Pattaya Mail - Pattaya News, Communities, Opinions and much more”. Pattaya Mail. ngày 24 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2014.
- ^ “อันดับฟีฟ่าเดือนก.ย.-ชบาแก้วรั้งที่ 28 โลก ครองเบอร์1อาเซียน”. www.siamsport.co.th. 7 tháng 9 năm 2018.
- ^ “เยี่ยม ! "ชบาแก้ว" รั้ง 28 ของโลกจากการจัดอันดับโลกล่าสุด”. 26 tháng 6 năm 2018.
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên
:1
- ^ “Nualphan Lamsam - 'bông hồng thép' của làng bóng đá Thái Lan”. zing.vn. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2019.
- ^ Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation
- ^ “Women's World Cup”. rsssf.com. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2019.
- ^ “Meet the Teams: Thailand [Group A]”. the-afc.com.
- ^ “ฟุตบอลหญิงชิงแชมป์โลก กลุ่ม บี: ทีมชาติไทยเป็นรองแค่ชื่อ แต่...หัวใจแกร่งไม่แพ้ใคร”. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2019.
- ^ “มิรันดานำทัพ ชบาแก้ว ชุดบอลโลก ลุยศึกชิงแชมป์อาเซียน 2019”. foxsports.co.th. FOX Sports Thailand. ngày 11 tháng 8 năm 2019.
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
Tiền
nhiệm: 1981 | Cúp bóng đá nữ châu Á 1983 Danh hiệu đầu tiên | Kế nhiệm: 1986 Trung Quốc |