Việt Nam có những lợi thế so sánh nào so với các nước trên thế giới

Vẽ lại bức tranh lợi thế so sánh của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu

Khánh An 04/08/2021 08:49
Baoquocte.vn. Sự đứt gãy và hồi phục của các chuỗi cung ứng toàn cầu do đại dịch sẽ chỉ là cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam nếu các lợi thế, điểm yếu được nhìn nhận trong bối cảnh mới.
Để tăng trưởng, cần vẽ lại bức tranh lợi thế so sánh của Việt Nam. (Nguồn: Cafe F)

Lợi thế so sánh của Việt Nam đang dịch chuyển

Covid-19 làm thay đổi khá lớn lợi thế so sánh của các nền kinh tế trong ngắn hạn. Cho đến thời điểm này, các báo cáo đều cho thấy, các ngành sản xuất thiết bị y tế, dược phẩm, công nghệ thông tin, thương mại điện tử đang có lợi thế nổi trội.

Cùng với đó là những khuyến nghị dịch chuyển, thay đổi để khớp vào chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị sẽ định hình sau đại dịch dành cho các ngành khác.

Tuy nhiên, tính khả thi của các khuyến nghị này đang phụ thuộc rất lớn vào bức tranh lợi thế so sánh của các ngành kinh tế của Việt Nam trên thị trường toàn cầu.

“Phải nhìn rõ để có ứng xử chính sách phù hợp”, PGS-TS Nguyễn Anh Thu, Phó hiệu trưởng Trường đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội), Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) chia sẻ trong buổi công bố Báo cáo thường niên Kinh tế Việt Nam 2021, lý giải cho trọng tâm của nghiên cứu là lợi thế so sánh và sự tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của Việt Nam.

Theo Phương pháp Lợi thế so sánh hiện hữu (RCA), dựa trên thị phần, giá trị xuất khẩu, nhóm nghiên cứu của Trường đại học Kinh tế cho rằng, giai đoạn 2010 - 2019, Việt Nam có lợi thế so sánh trong 9 nhóm hàng. Đó là da giày, mũ và các sản phẩm đội đầu, nguyên liệu dệt may, hàng dệt may, thiết bị điện tử, gỗ và sản phẩm gỗ, sản phẩm thực vật, động vật sống và sản phẩm từ động vật.

Nhưng đến năm 2020, chỉ còn 6 nhóm hàng được liệt kê trong danh sách này, gồm hàng dệt may, da giày, điện tử, gỗ, da và nguyên liệu dệt may.

Ngược lại, các nhóm ngành giấy, bột giấy, khoáng sản, dầu mỏ, nhựa, kim loại cơ bản, thiết bị cơ khí, hóa chất... có tên trong các nhóm ngành không có lợi thế so sánh của Việt Nam.

“Vấn đề là, khi so sánh RCA của Việt Nam trên toàn cầu trong năm qua đều giảm mạnh, trừ nhóm ngành điện tử và giày dép. Đến năm 2020, Việt Nam mất lợi thế so sánh ở nhóm hàng nông nghiệp, gồm cả sản phẩm động vật và thực vật. Trong 6 nhóm ngành trên, chỉ có một ngành có tốc độ RCA tăng nhanh là điện tử”, bà Thu phân tích.

Ngay trong khu vực ASEAN, RCA của Việt Nam năm 2020 vẫn khá cao, không thay đổi nhiều so với năm trước, nhưng xét về giá trị, thì khoảng cách vẫn rất lớn, trừ nhóm ngành điện tử”, bà Thu chia sẻ.

Lo lắng sau nhóm ngành có lợi thế cao

Sự nổi trội trong RCA của nhóm ngành điện tử không đáng ngạc nhiên khi nhìn vào tốc độ gia tăng cả về sản lượng và giá trị xuất nhập khẩu của nhóm này. Đây cũng là ngành tạo ra số lao động lớn thứ ba cho Việt Nam (sau dệt may, da giày) và thu hút lớn nguồn vốn FDI.

Trong giai đoạn 2010-2020, Việt Nam nằm trong Top 10 thế giới về RCA trong ngành điện tử và năm 2020 vươn lên Top 5.

“Nhưng khi xem xét mức độ chuyên môn hóa trong các sản phẩm, thì những mặt hàng Việt Nam có lợi thế so sánh cao lại có chỉ số phức tạp thấp. Những sản phẩm xuất khẩu lớn cũng là sản phẩm có chỉ số phức tạp thấp, có hàm lượng khoa học công nghệ thấp. Nếu có sự thay đổi chuỗi sản xuất, chúng ta dễ bị thay thế”, bà Thu khuyến cáo.

Đặc biệt, trong chuỗi giá trị ngành hàng điện tử của Việt Nam khi tham gia toàn cầu, nhóm nghiên cứu tiếp tục thấy rõ sự “lấn át”, thậm chí “bao trọn” của doanh nghiệp FDI khi chiếm 95% tổng kim ngạch xuất khẩu trong năm 2020. Tỷ lệ nội địa hóa ngành công nghiệp điện tử hiện nay rất thấp, chỉ 5-10%.

Theo nhóm nghiên cứu, doanh nghiệp FDI gần như là người chơi chính. Có nhiều lý do để giải thích.

Một là, doanh nghiệp Việt chưa đáp ứng yêu cầu rất cao về tiêu chuẩn của chuỗi sản xuất toàn cầu.

Hai là, doanh nghiệp toàn cầu thường có tập quán kinh doanh lựa chọn doanh nghiệp cung ứng quen thuộc hoặc cùng quốc tịch với họ...

“Nhưng, cũng nhờ vậy, Việt Nam đang thâm nhập rất sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu của ngành điện tử, đang là đầu mối lớn trong ngành này. Nhưng tới đây, việc thu hút FDI cần hướng tới vị thế thượng nguồn, mang lại giá trị gia tăng nhiều hơn cho Việt Nam”, bà Thu nói.

Cơ hội nào cho ngành thực phẩm?

Chế biến thực phẩm đang nổi lên là nhóm ngành có lợi nhuận trước thuế cao, đứng thứ hai trong nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; là ngành chuyển từ nhập khẩu ròng sang xuất khẩu ròng.

Nhưng báo cáo của nhóm nghiên cứu Trường đại học Kinh tế cho thấy, lợi thế so sánh của ngành này đang có xu thế giảm. Năm 2020, RCA của ngành thực phẩm Việt Nam giảm 1% so với năm 2019. Vấn đề là, có những mặt hàng trong nhóm ngành đang ở nhóm đầu thế giới về RCA, đó là thục phẩm giáp xác và chế biến.

“Có nên đẩy mạnh đầu tư vào ngành này để nâng cao lợi thế so sánh của ngành thực phẩm không?”, bà Thu đặt vấn đề với các nhà hoạch định chính sách.

Lý do là, trong bức tranh của chuỗi giá trị toàn cầu ngành thực phẩm, sự tham gia của Việt Nam đang giảm đi, nhưng vị thế lại tăng lên. Hơn thế, trong chuỗi giá trị này, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam đang ở thế dẫn dắt sự tham gia của Việt Nam.

Tuy nhiên, khi vẽ nên chuỗi giá trị toàn cầu của ngành thực phẩm, tọa độ của Việt Nam rất xa, thậm chí khá tách biệt so với nước khác trên thế giới. Hàm ý là sự tham gia của Việt Nam trong chuỗi này khá nông.

“Vị thế trong chuỗi giá trị của Việt Nam sẽ được cải thiện khi năng lực của khu vực sản xuất trong nước được cải thiện. Điều đó cũng có nghĩa là, lợi thế so sánh của Việt Nam trong ngành này sẽ giảm nếu không có các chính sách phù hợp trước bối cảnh cạnh tranh quốc tế vô cùng khắc nghiệt”, nhóm nghiên cứu khuyến nghị.

(theo Báo Đầu tư)

Lợi thế so sánh và sự tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của Việt Nam

Được viết ngày Thứ hai, 30 Tháng 8 2021 15:57

Việt Nam có những lợi thế so sánh nào so với các nước trên thế giới

Theo nghiên cứu của các chuyên gia đến từ Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, trong giai đoạn 2010-2019, Việt Nam có lợi thế so sánh trong 9/20 nhóm ngành (riêng năm 2020, chỉ còn lợi thế với 6 nhóm ngành); mức độ tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu (GVCs) của Việt Nam có xu hướng giảm đi trong giai đoạn 2010-2018… Điều này đòi hỏi Việt Nam cần có những chính sách nhằm phát huy lợi thế so sánh của mình để “định vị” lại trong GVCs.

Thực trạng

Giai đoạn 2010-2020, Việt Nam đã đạt thành tích tăng trưởng thương mại ấn tượng khi kim ngạch xuất nhập khẩu liên tục tăng và xuất siêu được duy trì trong 5 năm trở lại đây. Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch, Việt Nam là một trong các quốc gia ít ỏi ở khu vực châu Á có tốc độ tăng trưởng thương mại dương và đạt mức xuất siêu kỷ lục vào năm 2020 với gần 20 tỷ USD. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng tương đối ổn định trong giai đoạn 2010-2019.

Năm 2020, đại dịch Covid-19 đã có những tác động nhất định đến dòng FDI vào Việt Nam, nhưng những tác động này không phải là quá lớn. Mức giảm của tổng vốn đăng ký cấp mới và vốn thực hiện tương đối thấp. Bên cạnh đó, vẫn có những kết quả đáng khích lệ khi tổng vốn đăng ký tăng thêm vẫn tăng so với năm trước và vốn thực hiện vẫn tăng đều qua các quý của năm 2020. Những kết quả này thể hiện thương mại và đầu tư sẽ tiếp tục là những lợi thế mà Việt Nam cần tận dụng để nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế trong thời gian tới.

Trong giai đoạn 2010-2019, Việt Nam có lợi thế so sánh trong 9/20 nhóm ngành. Tuy nhiên, năm 2020, chỉ còn lợi thế với 6 nhóm ngành, trong đó có 1 nhóm ngành có lợi thế so sánh cao là giày dép, mũ; 3 nhóm ngành có lợi thế so sánh ở mức trung bình (hàng dệt may; máy móc, thiết bị điện tử; da và sản phẩm da) và 2 nhóm ngành có lợi thế so sánh ở mức thấp (gỗ - sản phẩm gỗ và nguyên liệu dệt may).

Trong cả giai đoạn, bức tranh lợi thế so sánh của Việt Nam có một số điểm cần chú ý: i) lợi thế so sánh của Việt Nam với hầu hết các nhóm ngành đều giảm (7/9 ngành có lợi thế), ngay cả với nhóm ngành duy nhất Việt Nam có lợi thế so sánh cao là giày, dép, mũ; ii) Việt Nam đang mất dần lợi thế so sánh với các sản phẩm nông nghiệp khi không còn lợi thế với cả nhóm sản phẩm động vật và thực vật trong năm 2020; iii) ngành duy nhất có lợi thế so sánh tăng cao là điện tử, nhưng sự gia tăng lợi thế so sánh trong ngành này lại bắt nguồn từ sự hiện diện và mở rộng sản xuất, xuất khẩu, đầu tư của các doanh nghiệp FDI; iv) các ngành Việt Nam không có lợi thế so sánh là các ngành liên quan nhiều đến nguyên vật liệu đầu vào như nhựa, cao su, máy móc cơ khí, kim loại, giấy hoặc các sản phẩm có giá trị và công nghệ cao như phương tiện thiết bị vận tải, thiết bị quang học, nhạc cụ và thiết bị y tế…

Mức độ tham gia vào GVCs của Việt Nam có xu hướng giảm trong giai đoạn 2010-2018. Ở phần hạ nguồn của GVCs, các đối tác chính cung cấp đầu vào trung gian phục vụ cho chế xuất tại Việt Nam đến chủ yếu từ châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước ASEAN, thể hiện tính chất nội vùng lấn át tính chất toàn cầu trong cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam. Trong khi đó, ở phía thượng nguồn của GVCs, các đối tác nhập khẩu đầu vào trung gian của Việt Nam để chế xuất có tính đa dạng hơn, thể hiện tính toàn cầu hơn, không chỉ hướng vào Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN mà còn hướng nhiều tới thị trường EU, Australia và Hoa Kỳ.

Đối với sự tham gia vào GVCs theo ngành, giá trị gia tăng nội địa trong xuất khẩu của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thấp hơn đáng kể so với ngành sơ cấp gồm nông nghiệp, khai thác mỏ và ngành dịch vụ. Điều này phản ánh rõ bản chất gia công, chế biến, chế tạo của ngành công nghiệp Việt Nam, đồng thời cũng nhấn mạnh vai trò và tiềm năng của nhóm ngành nông nghiệp trong việc cải thiện vị thế của Việt Nam.

Bên cạnh đó, sự tham gia GVCs của Việt Nam theo nhóm ngành đã cho thấy sự chuyển biến rõ rệt trong giai đoạn 2010-2018. Ở cả ba nhóm ngành cơ bản, công nghiệp chế biến, chế tạo và dịch vụ đều đang có chiều hướng gia tăng sự tham gia vào khâu thượng nguồn trong GVCs. Ngược lại, sự tham gia hạ nguồn GVCs của ba nhóm ngành lại cho thấy xu hướng ngược chiều nhau - ngành cơ bản có xu hướng tăng trong khi hai ngành còn lại giảm.

Triển vọng và thách thức của một số ngành có ưu thế

Với sự thay đổi của hệ số lợi thế so sánh biểu lộ (RCA), Việt Nam có triển vọng tăng lợi thế so sánh trong tương lai gần gồm điện tử và giày dép, nhưng với các ngành khác, triển vọng tăng lợi thế so sánh là vô cùng khó khăn. Triển vọng để Việt Nam tăng vị thế trong GVCs cũng khá tích cực khi Việt Nam đang và sẽ tiếp tục hướng tới phần thượng nguồn của chuỗi.

Trong tương lai gần, định vị lợi thế so sánh của nhóm ngành điện tử xuất khẩu Việt Nam có khả năng sẽ tiếp tục được cải thiện trên thị trường quốc tế. Việt Nam chủ yếu đang nằm ở vị thế hạ nguồn của chuỗi nhưng đang có chiều hướng hướng tới vị thế thượng nguồn. Xu hướng phát triển này dự đoán sẽ tiếp tục duy trì trong thời gian sắp tới, mang lại nhiều giá trị gia tăng hơn cho ngành điện tử.

Ngành công nghiệp điện tử Việt Nam đang có những điều kiện và triển vọng thuận lợi chưa từng có để phát triển nhờ vào việc mở rộng cơ hội xuất khẩu sang thị trường nước ngoài, thu hút vốn FDI tăng mạnh trong lĩnh vực điện tử, giá các sản phẩm điện tử, viễn thông sẽ giảm nhiều khi gỡ bỏ hàng rào thuế quan và cơ hội đưa Việt Nam trở thành “công xưởng thứ hai của thế giới” khi một loạt tập đoàn điện tử, viễn thông lớn tuyên bố rút lui khỏi thị trường Trung Quốc, chuyển sang khu vực Đông Nam Á.

Bên cạnh đó, ngành điện tử Việt Nam cũng phải đối mặt với không ít khó khăn trong thời gian tới. Đó là sức ép cạnh tranh ngay ở thị trường trong nước khi mà năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp hiện nay còn yếu, áp lực đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đang ngày càng đè nặng lên hệ thống đại học Việt Nam và chất xám của các doanh nghiệp Việt Nam bị thu hút sang các công ty xuyên quốc gia; tầm và quy mô của doanh nghiệp Việt Nam ở sân chơi quốc tế hầu hết còn khá nhỏ. Sự thay đổi về cơ cấu sản phẩm từ “cứng” sang “mềm” cũng là thách thức rất lớn đối với doanh nghiệp sản xuất thuộc lĩnh vực điện tử.

Ngành điện tử Việt Nam có tỷ lệ nội địa hóa thấp và doanh nghiệp FDI đóng vai trò tham gia chính, dẫn dắt trong chuỗi giá trị tại Việt Nam. Các mặt hàng xuất khẩu điện tử của Việt Nam vẫn chỉ có chỉ số độ phức tạp sản phẩm thấp và có nhiều đối thủ cạnh tranh cùng trình độ phát triển. Điều này sẽ làm hạn chế đi khả năng thích ứng, đáp ứng những nhu cầu cấp bách, mới nổi và bắt kịp với xu hướng phát triển của thị trường toàn cầu.

Trong ngắn hạn và trung hạn, vị trí của ngành thực phẩm trong GVCs có thể sẽ được cải thiện do năng lực của khu vực sản xuất trong nước được cải thiện khiến nhập khẩu giá trị gia tăng làm đầu vào cho chế xuất giảm và EVFTA có hiệu lực sẽ mở ra cơ hội tăng cường xuất khẩu đầu vào giá trị gia tăng cho sản xuất hàng xuất khẩu của các quốc gia EU.

Triển vọng tích cực nâng cao lợi thế của ngành thực phẩm Việt Nam đến từ nhiều kênh khác nhau. Thứ nhất, hội nhập kinh thế quốc tế sâu rộng thông qua Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và các hiệp định thương mại tự do (FTAs) đã góp phần giúp Việt Nam trở thành một quốc gia quan trọng trong chuỗi giá trị thực phẩm khu vực và toàn cầu. Bên cạnh đó, các đối tác ở cả phía thượng nguồn và hạ nguồn đều là thành viên của FTAs, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hoá thực phẩm của Việt Nam tiếp cận thị trường cũng như được hưởng các ưu đãi về thuế, thuận lợi hoá thương mại. Thứ hai, ngành thực phẩm Việt Nam đã tích cực tham gia phần hạ nguồn của chuỗi giá trị, nhờ đó nguồn cung đầu vào được đa dạng hoá, tạo động lực cho việc gia tăng tỷ trọng giá trị nội địa và tăng trưởng của ngành trong tương lai.

Bên cạnh đó, ngành thực phẩm của Việt Nam cũng đối mặt với một số thách thức trong quá trình tiến tới nâng cao vị thế: 1) Các mặt hàng thực phẩm nông sản chủ yếu được vận chuyển nội địa theo đường bộ, dẫn tới chi phí cao; 2) Chất lượng sản phẩm xuất khẩu chưa cao 3) Chất lượng nguồn cung đầu vào cho ngành thực phẩm trong nước không đáp ứng đủ tiêu chuẩn xuất khẩu khiến các doanh nghiệp chế xuất phải nhập khẩu đầu vào của nước ngoài để sản xuất; 4) Các vấn đề liên quan tới an toàn thực phẩm, quy chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn chất lượng trở thành gánh nặng cho các hộ sản xuất thực phẩm xuất khẩu nhưng thiếu cơ chế thực thi chung.

Định vị lại Việt Nam trong GVCs

Song hành với những chính sách mang tính ngắn hạn đang thực hiện nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực của COVID-19, Việt Nam nên kiên trì với những cải cách dài hơi để cải thiện kinh tế vĩ mô và giảm thiểu rủi ro trong tương lai. Trong mọi tình huống, lạm phát, lãi suất và tỷ giá cần được duy trì ổn định để chuẩn bị cho giai đoạn phục hồi sau bệnh dịch.

Nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện môi trường kinh doanh vẫn là một yêu cầu thường trực, trong đó cần nhận diện và khắc phục các rào cản để nâng cao thứ hạng trong bộ chỉ số năng lực cạnh tranh 4.0 (WEF). Việt Nam cần tận dụng được thương mại và đầu tư để nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế trong tương lai.

Để làm được điều này, cần thấy được vai trò đặc biệt quan trọng của các FTA trong việc cải thiện lợi thế so sánh và giá trị gia tăng của Việt Nam trong GVCs, đồng thời tạo môi trường để các FTA phát huy hiệu quả. Song song với điều này, để có thể giảm những tác động tiêu cực từ hội nhập, Việt Nam cần có những giải pháp để tăng sự chống chịu của nền kinh tế trên cơ sở tiếp tục đa dạng hoá thị trường và hàng hoá dựa trên mạng lưới FTA và lợi thế so sánh.

Hoạt động xuất nhập khẩu có vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP). Để có thể cải thiện TFP thông qua việc tham gia vào GVCs, Việt Nam có thể thông qua việc thiết lập và gắn kết với các đối tác là các quốc gia có mức thu nhập cao và phát triển hơn. Với mối liên kết sau, Việt Nam có thể tận dụng nguồn nguyên liệu đầu vào chất lượng và với hàm lượng công nghệ cao, cải thiện năng suất của mình. Với mối liên kết trước, Việt Nam có thể tiếp cận với những tiêu chuẩn và bí quyết từ đối tác xuất khẩu của mình.

Đối với ngành điện tử, Việt Nam nên tận dụng tốt vai trò của các FTA nhằm tăng cường sự kết nối với các đối tác chiến lược cả ở phía thượng nguồn và hạ nguồn; đa dạng các đối tác khác bên ngoài châu Á để giảm thiểu rủi ro khi quá phụ thuộc vào một số quốc gia nhất định trong khu vực.

Việt Nam cũng cần nâng cao tỷ lệ nội địa hóa cho doanh nghiệp trong xuất khẩu điện tử thông qua: (i) hoàn thiện cơ sở dữ liệu về công nghiệp hỗ trợ; (ii) chủ động tìm kiếm đối tác, đặc biệt là đối tác nước ngoài nhằm mở rộng thị trường cho công nghiệp hỗ trợ trong nước phát triển; (iii) nâng cao hợp tác với các quốc gia khác nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ; (iv) tích cực hướng dẫn và hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện xác nhận ưu đãi đối với các dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ…

Để cải thiện vị thế của Việt Nam trong GVCs ngành thực phẩm, cần tập trung vào 3 trụ cột chính, bao gồm chế biến (thực hiện các nhiệm vụ cụ thể tốt hơn), sản phẩm (tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt hơn, phức tạp hơn hoặc có giá thành cao hơn) và chức năng (có được các kỹ năng mới trong chuỗi giá trị mà doanh nghiệp chưa thực hiện trước đây).

Về phía các cơ quan quản lý nhà nước: cần tập trung xúc tiến triển khai các cam kết cũng như ký kết các thỏa thuận về công nhận lẫn nhau, hậu kiểm trong lĩnh vực hàng rào kỹ thuật (TBT); khuyến khích nhập khẩu, chuyển giao công nghệ chế biến thực phẩm; đẩy mạnh thực hiện chương trình xây dựng thương hiệu Việt Nam cho ngành thực phẩm; tăng cường truyền thông về các ưu đãi đã cam kết trong FTA liên quan đến thực phẩm.

PGS. TS Nguyễn Trúc Lê, PGS. TS Nguyễn Anh Thu, TS. Nguyễn Quốc Việt

VEPR, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội

Nguồn: VietQ

Từ khóa: VEPR, chuỗi giá trị toàn cầu, lơi thế so sánh

Mục lục

  • 1 Phân tích của Ricardo về lợi thế so sánh
  • 2 Mở rộng phân tích lợi thế so sánh cho nhiều hàng hóa và nhiều quốc gia
  • 3 Hạn chế của nguyên tắc lợi thế so sánh
  • 4 Lợi thế so sánh về giá yếu tố đầu vào
  • 5 Tham khảo
  • 6 Liên kết ngoài

Phân tích của Ricardo về lợi thế so sánhSửa đổi

Năm 1817, nhà kinh tế học người Anh David Ricardo đã nghiên cứu và chỉ ra rằng chuyên môn hóa quốc tế sẽ có lợi cho tất cả các quốc gia và gọi kết quả này là quy luật lợi thế so sánh. Ông đã phân tích như sau:

Bảng 1 - Chi phí về lao động để sản xuất
Sản phẩm Tại Bồ Đào Nha (giờ công) Tại Anh (giờ công)
1 đơn vị lúa mỳ 15 10
1 đơn vị rượu vang 30 15

Trong ví dụ này Anh có lợi thế tuyệt đối so với Bồ Đào Nha trong sản xuất cả lúa mỳ lẫn rượu vang: năng suất lao động của Anh gấp hai lần Bồ Đào Nha trong sản xuất rượu vang và gấp 1,5 lần trong sản xuất lúa mỳ. Theo suy nghĩ thông thường, trong trường hợp này Anh sẽ không nên nhập khẩu mặt hàng nào từ Bồ Đào Nha cả. Thế nhưng phân tích của Ricardo đã dẫn đến kết luận hoàn toàn khác:

  • 1 đơn vị rượu vang tại Bồ Đào Nha sản xuất phải tốn chi phí tương đương với chi phí để sản xuất 2 đơn vị lúa mì (hay nói một cách khác, chi phí cơ hội để sản xuất 1 đơn vị rượu vang là 2 đơn vị lúa mì); trong khi đó, tại Anh để sản xuất 1 đơn vị rượu vang chỉ mất chi phí tương đương với chi phí để sản xuất 1,5 đơn vị lúa mì (hay chi phí cơ hội để sản xuất 1 đơn vị rượu vang là 1,5 đơn vị lúa mì). Vì thế ở Anh sản xuất rượu vang rẻ hơn tương đối so với ở Bồ Đào Nha.
  • Tương tự như vậy, ở Bồ Đào Nha, sản xuất lúa mì rẻ hơn tương đối so với Anh (vì chi phí cơ hội chỉ có 0,5 đơn vị rượu vang trong khi ở Anh phải mất 2/3 đơn vị rượu vang). Hay nói một cách khác, Bồ Đào Nha có lợi thế so sánh về sản xuất lúa mì còn Anh có lợi thế so sánh về sản xuất rượu vang. Để thấy được cả hai nước sẽ cùng có lợi nếu chỉ tập trung vào sản xuất mặt hàng mà mình có lợi thế so sánh: Bồ Đào Nha chỉ sản xuất lúa mì còn Anh chỉ sản xuất rượu vang rồi trao đổi thương mại với nhau, Ricardo đã làm như sau:
  • Ông giả định nguồn lực lao động của Bồ Đào Nha là 270 giờ công lao động, còn của Anh là 180 giờ công lao động.
  • Nếu không có thương mại, cả hai nước sẽ sản xuất cả hai hàng hoá và theo chi phí tại Bảng 1 thì kết quả là số lượng sản phẩm được sản xuất ra như sau:
Bảng 2 - Trước khi có thương mại
Quốc gia Số đơn vị lúa mì Số đơn vị rượu vang
Bồ Đào Nha 8 5
Anh 9 6
Tổng cộng 17 11
  • Nếu Bồ Đào Nha chỉ sản xuất rượu vang còn Anh chỉ sản xuất lúa mì rồi trao đổi thương mại với nhau thì số lượng sản phẩm được sản xuất ra sẽ là:
Bảng 3 - Sau khi có thương mại
Đất nước Số đơn vị lúa mì Số đơn vị rượu vang
Bồ Đào Nha 18 0
Anh 0 12
Tổng cộng 18 12

Rõ ràng sau khi có thương mại và mỗi nước chỉ tập trung vào sản xuất hàng hoá mà mình có lợi thế so sánh, tổng số lượng sản phẩm của lúa mì và rượu vang của cả hai nước đều tăng hơn so với trước khi có thương mại (là lúc hai nước cùng phải phân bổ nguồn lực khan hiếm của mình để sản xuất cả hai loại sản phẩm). Lưu ý rằng phân tích của Ricardo kèm theo những giả định sau:

  • Không có chi phí vận chuyển hàng hoá.
  • Chi phí sản xuất cố định không thay đổi theo quy mô.
  • Chỉ có hai nước sản xuất hai loại sản phẩm.
  • Những hàng hoá trao đổi giống hệt nhau.
  • Các nhân tố sản xuất chuyển dịch một cách hoàn hảo.
  • Không có thuế quan và rào cản thương mại.
  • Thông tin hoàn hảo dẫn đến cả người bán và người mua đều biết nơi có hàng hoá rẻ nhất trên thị trường quốc tế.

Đâu là lợi thế so sánh trong xuất khẩu của Việt Nam?

(Tài chính) Chiến lược phát triển kinh tế theo hướng thị trường mở cửa hội nhập đang mở ra cho xuất khẩu Việt Nam nhiều cơ hội, nhưng cũng không ít thách thức. Vì thế, Việt Nam cần biết những lợi thế so sánh của mình để từ đó phát huy, nhằm gia tăng giá trị xuất khẩu của hàng Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Đánh giá lợi thế so sánh của hàng xuất khẩu Việt Nam

Chuỗi giá trị toàn cầu (Global Value Chain - GVC) được hiểu là chuỗi giá trị trong đó các hoạt động của chuỗi có thể được thực hiện bởi nhiều hãng và diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Trong cách tiếp cận chuỗi giá trị toàn cầu, mỗi nền kinh tế quốc gia chỉ là một bộ phận hữu cơ coi phân công lao động quốc tế là xu thế tất yếu và biên giới quốc gia không còn là giới hạn chủ yếu quy định không gian phát triển của các chủ thể kinh tế. Để nâng cao khả năng, hiệu quả tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, thì hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam phải xác định được những lợi thế so sánh cùng những điểm hạn chế để đưa ra các chính sách hỗ trợ phù hợp.

Trong những năm qua, xuất khẩu của Việt Nam đang sử dụng những lợi thế so sánh bậc thấp, gồm 5 loại: (i) Lao động giản đơn; (ii) Nguyên liệu thô, sơ chế; (iii) Vốn vừa và nhỏ; (iv) Công nghệ phù hợp; (v) Sức mua thấp. Chính vì vậy mà hàng hóa xuất khẩu của chúng ta chủ yếu vẫn dưới dạng thô, giá trị gia tăng thấp, lợi ích thu được từ xuất khẩu không cao. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, những lợi thế so sánh bậc thấp này lại phù hợp với một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, như:

Nông sản xuất khẩu: So với các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu, như: hàng dệt may, giầy da hay cơ khí, điện tử lắp ráp…, thì trong cùng một lượng kim ngạch xuất khẩu thu về như nhau, tỷ lệ chi phí sản xuất có nguồn gốc ngoại tệ của hàng nông sản rất thấp. Do đó, thu nhập ngoại tệ ròng của hàng nông sản xuất khẩu đang cao hơn nhiều so với các ngành hàng xuất khẩu khác (Hà Văn Sự, Bảng 1).

Bảng 1: Tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam

Nhóm hàng

Giá trị hàng hóa - 100%

Thực hiện trong nước

Thực hiện ở nước ngoài

Công nghiệp

Gia công, lắp ráp, chế biến nguyên, vật liệu đạt 20-30%

Do nhập khẩu nguyên, vật liệu chiếm: 70-80%

Nông sản, khoáng sản

Sản xuất nông, lâm, thủy sản, khai khoáng, nguyên vật liệu đạt 50%

Chế biến ở nước ngoài 50%

Nguồn: Hà Văn Sự, 2011

Có thể nói, đây là lợi thế ban đầu của các nước nghèo như Việt Nam, khi chưa có đủ nguồn ngoại tệ để đầu tư xây dựng các nhà máy lớn, khu công nghiệp để sản xuất - kinh doanh những mặt hàng tiêu tốn nhiều ngoại tệ, cũng như có những thương hiệu mạnh đủ sức đứng vững trên thị trường thế giới.

Nông, lâm nghiệp, thủy sản là những ngành sử dụng nhiều lao động vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Đây là một ưu thế quan trọng giúp nước ta phải giải quyết thêm việc làm cho 1,4 triệu người bước vào tuổi lao động mỗi năm. Hơn nữa, với việc giá nhân công Việt Nam vẫn còn rẻ hơn các nước khác trong khu vực, thì trước mắt, đây cũng là một lợi thế so sánh cho ngành này. Tất nhiên lợi thế này sẽ không tồn tại lâu do quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước giúp cho thu nhập của người dân dần cải thiện.

Điều đáng lưu ý là những lợi thế so sánh bậc thấp có ưu thế đối với nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản, nhưng lại bất lợi đối với nhóm hàng công nghiệp, với đặc thù phải sử dụng lợi thế so sánh bậc cao, bao gồm: (1) Lao động chất lượng cao; (2) Nguyên, vật liệu tinh chế; (3) Vốn lớn; (4) Công nghệ hiện đại; (5) Sức mua cao. Thời gian qua, Việt Nam chưa đạt được những lợi thế bậc cao này, nên hầu hết các mặt hàng xuất khẩu công nghiệp, như: dệt may, giày da, điện tử và linh kiện máy tính... không những chỉ đơn thuần mang tính chất gia công, mà chủ yếu là đón các công nghệ chưa phải là nguồn từ các nước phát triển. Bởi vậy, các nhà sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam ít có khả năng kiểm soát đối với toàn bộ chuỗi giá trị của sản phẩm, hay chỉ thu được về phần nhỏ và rẻ nhất trong toàn bộ giá trị gia tăng (khoảng 20-30% tổng giá trị).

Hơn nữa, Việt Nam cũng chưa chú trọng khai thác những lợi thế cạnh tranh khi xây dựng các ngành công nghiệp, tạo nên mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn. Bởi vậy, chưa thể vươn tới một số khâu trong chuỗi giá trị có ảnh hưởng chi phối đến phần giá trị gia tăng của các nhà sản xuất và xuất khẩu Việt Nam. Do đó, tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam thực tế đã không đem lại sự gia tăng tương ứng trong thu nhập cho người sản xuất do sự rớt giá, hoặc hàng sản xuất sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên, lao động rẻ, hàng hóa có hàm lượng công nghệ cao. Thực tế này đang đặt Việt Nam đối diện với hệ lụy là sự phát triển thiếu bền vững như học thuyết Immiserizing growth - tăng trưởng bần cùng hóa” được GS. Jagdish Bhagwati đưa ra vào năm 1958 (Học thuyết này nêu rõ, sự tăng trưởng của một quốc gia có thể chạm tới ngưỡng, mà tại đó đất nước trở nên xấu đi so với trước ngưỡng này. Nếu tăng trưởng của một quốc gia quá phụ thuộc vào xuất khẩu, thì sẽ dẫn tới tình trạng giảm tỷ giá thương mại của nước xuất khẩu. Trong một số trường hợp, sự sụt giảm này sẽ lớn hơn phần tăng trưởng thu được).

Giải pháp chiến lược đối với xuất khẩu của Việt Nam

Thứ nhất, chuyển đổi mô hình xuất khẩu

Từ bối cảnh suy thoái kinh tế hiện nay, đã xuất hiện nhiều quan điểm cho rằng, cần chuyển định hướng phát triển kinh tế dựa vào xuất khẩu sang thay thế nhập khẩu và phát triển thị trường nội địa. Thực tế tại nhiều nước trên thế giới đã thành công thông qua các biện pháp: tăng cường bảo hộ thị trường trong nước, kích cầu tiêu dùng nội địa. Điển hình là Trung Quốc.

Tuy nhiên, đối với Việt Nam, hiện nay, khi thị trường trong nước chưa phát triển, cần tranh thủ nguồn lực bên ngoài, nhất là FDI, để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển xuất khẩu là con đường nhanh nhất để Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Do vậy, nhu cầu phải nhanh chóng thay đổi mô hình tăng trưởng xuất khẩu ngày càng trở nên cấp bách.

Những năm qua, tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có về tài nguyên và lao động rẻ. Lợi thế nói trên hiện tại và một vài năm tới vẫn đang còn phát huy tác dụng. Nhưng, cũng dễ dàng nhận thấy rằng, nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt. Những hạn chế mang tính cơ cấu về lợi thế tự nhiên, như: khả năng khai thác, đánh bắt, nuôi trồng sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trong dài hạn. Đó là chưa kể đến những tác động tiêu cực đến môi trường được xem như một hạn chế cản trở tăng trưởng xuất khẩu.

Cùng với đó, lợi thế lao động rẻ cũng ngày càng giảm dần khi chênh lệch tiền lương lao động ở Việt Nam với các nước giảm dần và nhu cầu cao trên thị trường thế giới về những hàng hóa có hàm lượng công nghệ, khoa học ngày càng cao. Do đó, dựa vào mô hình tăng trưởng theo chiều rộng trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh sẵn có, xuất khẩu Việt Nam khó có thể duy trì được tốc độ tăng trưởng ở mức cao trong thời gian tới.

Việc xây dựng mô hình tăng trưởng mới cần phải hướng theo chiều sâu, dựa vào việc khai thác lợi thế cạnh tranh động để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả xuất khẩu trên cơ sở đẩy mạnh cải cách thể chế, sử dụng công nghệ tiên tiến, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại và đồng bộ.

Chuyển từ phát triển xuất khẩu theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu, từ việc dựa chủ yếu vào lợi thế so sánh sẵn có (tĩnh) sang lợi thế cạnh tranh “động” không những là nhân tố quyết định chất lượng tăng trưởng xuất khẩu, mà còn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, nâng cao hiệu quả kinh tế, cũng như khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, phù hợp với xu hướng biến đổi của thị trường. Nhờ đó, hạn chế được rủi ro khi thị trường thế giới có những biến động bất lợi. Chuyển nền kinh tế từ khai thác và sử dụng tài nguyên dưới dạng thô sang chế biến tinh xảo hơn, nâng cao giá trị gia tăng từ mỗi một đơn vị tài nguyên được khai thác.

Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu

Đối với nhóm hàng nguyên liệu và khoáng sản: Giảm khối lượng xuất khẩu khoáng sản thô, chuyển dần sang xuất khẩu sản phẩm chế biến, tận dụng cơ hội thuận lợi về thị trường và giá cả để tăng giá trị nhóm hàng nhiên liệu và khai khoáng.

Nhóm hàng nông lâm, thủy sản: Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới để gia tăng sản lượng và kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản; hướng mạnh vào phát triển sản phẩm sạch, giá trị gia tăng cao, có sức cạnh tranh và vượt được rào cản thương mại mới ngày càng tinh vi của các nước nhập khẩu.

Đối với nhóm hàng công nghiệp chế biến, chế tạo và thủ công mỹ nghệ: Khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu đa dạng, nguồn lao động dồi dào để phát triển công nghiệp chế biến và chế tạo sản phẩm thủ công mỹ nghệ có tỷ lệ giá trị trong nước và giá trị gia tăng cao để phục vụ xuất khẩu, tăng nhanh kim ngạch và hiệu quả xuất khẩu, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.

Thứ ba, điều chỉnh cơ cấu thị trường xuất khẩu

Về cơ cấu thị trường xuất khẩu, củng cố và mở rộng vững chắc thị phần của hàng Việt Nam tại thị trường EU, Bắc Mỹ; tạo bước đột phá mở rộng thị trường xuất khẩu tại Liên bang Nga và Đông Âu, Mỹ La Tinh, Tây Á, Nam Á và châu Phi. Bên cạnh đó, tiếp tục coi thị trường châu Á - Thái Bình Dương (Trung Quốc, Indonesia…) là thị trường xuất khẩu trọng điểm trong 10 năm tới. Xuất khẩu sang các quốc gia và vùng lãnh thổ này, Việt Nam sẽ tận dụng được lợi thế về khoảng cách địa lý và nhiều nét tương đồng về văn hóa. Điều này sẽ mang lại một số thuận lợi trong việc tiếp cận và mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời vẫn bảo đảm duy trì thị trường trong nước.

Thứ tư, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu

Hàng hóa Việt Nam, đặc biệt là hàng nông sản, dệt may khi tham gia xuất khẩu vẫn bị xếp vào nhóm hàng gia công, sơ chế hoặc nghiên liệu thô, tức là giá trị thấp, nên mặc dù khối lượng xuất khẩu lớn, nhưng giá trị gia tăng không nhiều, dẫn đến giá trị xuất khẩu không cao. Trong khi đó, không ít mặt hàng xuất khẩu thô từ Việt Nam đưa các hãng phân phối lớn tiếp tục đóng gói, nhập khẩu lại thị trường Việt Nam với thương hiệu ngoại. Bởi vậy, để nâng cao giá trị gia tăng cho hàng xuất khẩu Việt Nam, Nhà nước nên tập trung cho việc cung cấp thông tin và thực hiện chiến lược xây dựng thương hiệu đối với những mặt hàng Việt Nam đã xuất khẩu và được thị trường thế giới chấp nhận, như: gạo, cà phê, thủ công mỹ nghệ…; từng bước thiết lập hệ thống phân phối tại các nước và khu vực trên thế giới để mang lại giá trị xuất khẩu cao.

Đồng thời, các nhà sản xuất nỗ lực tiến hành nâng cấp các khâu để từng bước chuyển từ nhà sản xuất gia công, không tên tuổi thành nhà sản xuất có thương hiệu riêng, cạnh tranh trên thị trường toàn cầu bằng chất lượng và tạo ra giá trị gia tăng cao hơn cho mình. Đặc biệt, nhà sản xuất phải biết gắn mình với thị trường tiêu thụ cuối cùng; cần học cách không chỉ làm thế nào để tổ chức mạng lưới sản xuất, mà còn phải học cả cách tiếp thị sản phẩm, tham gia vào dây chuyền phân phối và đáp ứng các điều kiện về giao hàng và tài chính. Hơn nữa, quá trình nâng cấp này không chỉ diễn ra ở từng doanh nghiệp riêng lẻ, mà còn phải được tiến hành ở cấp độ ngành, mạng lưới giữa những doanh nghiệp cung ứng và khách hàng, cũng như trong toàn nền kinh tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Thủ tướng Chính phủ (2011). Quyết định số 2471/QĐ-TTg, ngày 28/12/2011 về phê duyệt Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020

2. Hà Văn Sự (2011). Cấu trúc lại các ngành sản xuất của Việt Nam theo hướng nâng cao giá trị gia tăng cho hàng hóa xuất khẩu giai đoạn sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, Kỷ yếu Hội thảo Hội nhập: Hợp tác và Cạnh tranh, Nxb Thống kê, tháng 12/2011, Hà Nội

3. Đặng Như Vân (2003). Xuất khẩu: Việt Nam nằm ở đâu trong chuỗi giá trị?, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 304/2003


THÔNG TIN CẦN QUAN TÂM
  • Việt Nam có những lợi thế so sánh nào so với các nước trên thế giới

    Tăng tốc với EVFTA: Ngành dệt may sẵn sàng cho cột mốc 1/8

  • Việt Nam có những lợi thế so sánh nào so với các nước trên thế giới

    Gia tăng đầu tư để đưa thêm hàng Việt Nam vào EU

  • Việt Nam có những lợi thế so sánh nào so với các nước trên thế giới

    DATC xử lý tốt nợ xấu của các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp

Tin nổi bật

Việt Nam có những lợi thế so sánh nào so với các nước trên thế giới

Xử lý nghiêm minh các hành vi lợi dụng tình trạng ùn tắc hàng hoá để vi phạm pháp luật

Việt Nam có những lợi thế so sánh nào so với các nước trên thế giới

Chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp

Việt Nam có những lợi thế so sánh nào so với các nước trên thế giới

Kiểm soát thị trường giá cả ngay từ những tháng đầu năm

Việt Nam có những lợi thế so sánh nào so với các nước trên thế giới

Hơn 20.400 tờ khai hải quan làm thủ tục xuất nhập khẩu trong dịp Tết

Việt Nam có những lợi thế so sánh nào so với các nước trên thế giới

Khẩn trương trình Chính phủ việc gia hạn thời gian nộp thuế, tiền thuê đất năm 2022