Ví dụ về phép biện chứng cổ đại

Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hạt nhân triết học của khoa học Mác – Lênin, nó được coi là hình thức tăng trưởng cao nhất của chủ nghĩa duy vật, trong đó gồm có những quan điểm lý luận được xác lập dựa trên quan điểm duy vật biện chứng so với những yếu tố cơ bản của triết học. Vì vậy, nắm vững những quy luật cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng là yếu tố thiết yếu tiên phong để nghiên cứu và điều tra mạng lưới hệ thống những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin .

Nhằm giúp bạn đọc dễ hình dung hơn khi nói về chủ nghĩa duy vật biện chứng thì trong bài viết này, chúng tôi xin chia sẻ đến bạn đọc những nội dung kiến thức liên quan đến chủ nghĩa duy vật biện chứng, đồng thời lấy một vài ví dụ về chủ nghĩa duy vật biện chứng để bạn đọc dễ hàng hình dung hơn.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng là gì?

Chủ nghĩa duy vật biện chứng ( Hay còn được gọi là Phương pháp duy vật biện chứng ) là một bộ phận của học thuyết do Karl Marx và Friedrich Engels đề xướng. Bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng chính là chủ nghĩa duy vật ghép với phép biện chứng .

Đặc trưng của chủ nghĩa duy vật biện chứng là coi một sự vật hay một hiện tượng trong trạng thái luôn phát triển và xem xét nó trong mối quan hệ với các sự vật và hiện tượng khác.

Bạn đang đọc: Ví dụ về Chủ nghĩa duy vật biện chứng

Quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng

– Quá trình tăng trưởng của chủ nghĩa duy vật Chủ nghĩa duy vật đã được hình thành và tăng trưởng từ thời kỳ cổ đại và được tăng trưởng qua nhiều thời kỳ khác nhau . + Chủ nghĩa duy vật cổ đại : Tư tưởng về chủ nghĩa duy vật thời kỳ này thường mang tính trực giác là đa phần, chưa mang tính điều tra và nghiên cứu khoa học cao bởi thời kỳ đó chưa có sự Open của công nghệ tiên tiến nên sự nghiên cứu và điều tra của con người về những sự vật, hiện tượng kỳ lạ thời kỳ đó chỉ mang tính trực giác và suy đoán. Những nhà triết học duy vật thời ký này thường tăng trưởng những quan điểm độc lạ với những phe phái triết học sau này, ví dụ như chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo … + Chủ nghĩa duy vật cận đại : Bắt đầu từ thời kỳ phục hung cho đến thế kỷ XVIII, thời kỳ này, chủ nghĩa duy vật được gọi là chủ nghĩa siêu hình. Tuy phổ cập vẫn là chủ nghĩa duy vật bằng trực giác nhưng thời kỳ này, những nhà triết học đã dựa váo khá nhiều giải pháp thực nghiệm mà không còn mang nặng tính chủ quan và trực giác như trước nữa . – Quá trình hinhg thành và tăng trưởng của phép biện chứng : Cũng như chủ nghĩa duy vật, phép biện chứng cũng Open từ thời cổ đại . + Phép biện chứng thời kỳ cổ đại : Phép biện chứng cổ đại được hình thành và tăng trưởng từ tư tưởng của triết học Ấn Độ cổ đại, triết học Trung Quốc cổ đại và triết học Hy Lạp cổ đại .

+ Phép biện chứng thời kỳ cận đại : Từ thời kỳ phục hưng cho đến khoảng chừng thế kỷ XVIII, phép biện chứng lúc này không được biểu lộ một cách rõ rang, trù triết học cổ xưa của Đức và Hegel, nhưng với những nhà triết học này thì tư tưởng về phép biện chứng hầu hết dựa trên quan điểm duy tâm. Sau này, Karl Marx còn đưa ra nhận xét về tư tưởng của Hegel là “ phép biện chứng lộn sâu xuống đất ” .

Ví dụ về phép biện chứng cổ đại

Các quy luật cơ bản của phép duy vật biện chứng

Phép biện chứng duy vật gồm có 3 quy luật cơ bản sau đây :

Thứ nhất : Quy luật thống nhất và đấu tranh của những mặt trái chiều

Vị trí của quy luật trong phép biện chứng, quy luật này có nội dung gồm có : – Các khái niệm về “ xích míc ” và “ mặt trái chiều ”, “ thống nhất ”, “ đấu tranh ” và “ chuyển biến của những mặt trái chiều ; – Vai trò của thống nhất, đấu tranh và chuyển biến của những mặt trái chiều trong quy trình sống sót, hoạt động và tăng trưởng của sự vật, hiện tượng kỳ lạ ;

– Ý nghĩa phương pháp luận và thực tiễn của quy luật .

Thứ hai : Quy luật chuyển hóa những biến hóa về lượng thành những đổi khác về chất và ngược lại

Nội dung của quy luật này gồm có có :
– Vị trí của quy luật trong phép biện chứng ;

– Nội dung quy luật: Các khái niệm: “chất”, “lượng”, “độ”, “điểm nút”, “bước nhảy”;

Xem thêm: Big C đầu tiên tại Việt Nam mang tên là gì? – DNTT online

– Biện chứng giữa chất và lượng ;
– Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật .

Thứ ba : Quy luật phủ định của phủ định

Nội dung của quy luật này gồm có : – Vị trí của quy luật trong phép biện chứng ; – Các khái niêm : “ phủ định ”, “ phủ định của phủ định ” ; – Tính chu kỳ luân hồi và khuynh hướng xoáy ốc của sự tăng trưởng ;

– Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật .

Các phạm trù cơ bản của phép duy vật biện chứng

Các phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật gồm có có 6 phạm trù cơ bản như sau : – Cái chung – Cái riêng ; – Nội dung – Hình thức ; – Nguyên nhân – Kết quả ; – Tất nhiên – Ngẫu nhiên ; – Khả năng – Hiện thực ;

– Bản chất – Hiện tượng .

Ví dụ về chủ nghĩa duy vật biện chứng (adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({});

Để bạn đọc thuận tiện tưởng tượng hơn về phép duy vật biện chứng, sau đây chúng tôi xin đưa ra 2 ví dụ về phép duy vật biện chứng như sau :
– Theo quy luật “ phủ định của phủ định ” :

Một con gà mái được được coi là cái khẳng định, nhưng khi con gà mái đó đẻ trứng thì quả trứng đó sẽ đươc coi là cái phủ định của con gà. Sau đó quả trứng gà trải qua thời gian vận động và phát triển thì quả trứng lại nở ra con gà con. Vậy con gà con lúc này sẽ được coi là cái phủ định của phủ định, mà phủ định của phủ định sẽ trở thành cái khẳng định. Sự vận động và phát triển này luôn diễn ra liên tục vận động và phát triển và có tính chu kỳ.

Xem thêm: Big C đầu tiên tại Việt Nam mang tên là gì? – DNTT online

– Theo quy luật chuyển hóa những biến hóa về lượng thành những đổi khác về chất và ngược lại :
Sau khi tan làm, A đi xe máy với quãng đường 5 km từ cơ quan về đến nhà. Lúc này, toàn bộ sự đổi khác trong quãng đường mà A di chuyển từ cơ quan đến trước khi về đến nhà được coi là sự biến hóa về “ lượng ”, cho đến thời gian a về đến nhà thì đó là có biến hóa về “ chất ”. Như vậy trong trường hợp này, ta hoàn toàn có thể thấy sự biến hóa về lượng đã dẫn đến sự biến hóa về chất .

Trên đây là toàn bộ những nội dung liên quan đến Ví dụ về Chủ nghĩa duy vật biện chứngmà chúng tôi muốn gửi đến bạn đọc. Hi vọng với những chia sẻ trên, bạn đọc có thể dễ dàng hơn khi nghiên cứu và học tập Ví dụ về Chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Source: https://blogthuvi.com
Category: Blog

Ví dụ về phép biện chứng cổ đại

Phép biện chứng duy vật là gì? Bài biết ngày hôm nay chúng tôi xin chia sẻ tới các bạn các ví dụ về Phép biện chứng duy vật một cách thực tế.

Phép biện chứng duy vật là chỉ “Phép biện chứng trong chủ nghĩa Mác”. Là sự thống nhất giữa bản chất lý luận chủ nghĩa Mác (duy vật) và nhận thức luận (phép biện chứng). Với đối tượng nghiên cứu là những quy luật chung của sự phát triển của tự nhiên, xã hội loài người và tư duy con người. Là hình thức phát triển tiên tiến của tư tưởng biện chứng. Là một bộ phận cấu thành quan trọng trong triết học chủ nghĩa Mác.

Phép biện chứng duy vật cho rằng thế giới vật chất là một chỉnh thể thống nhất liên kết phổ biến, không ngừng thay đổi và vận động. Quy luật biện chứng là quy luật vận động của chính thế giới vật chất. Phép biện chứng chủ quan hay tư duy biện chứng là sự phản ánh phép biện chứng khách quan trong tư duy của con người. Đó là học thuyết phát triển toàn diện nhất, phong phú nhất và sâu sắc nhất.

Nó bao gồm ba quy luật cơ bản (quy luật thống nhất của các mặt đối lập, quy luật biến đổi về chất và quy luật phủ định của phủ định).  Và một loạt các phạm trù cơ bản như hiện tượng và bản chất, nguyên nhân và kết quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, khả năng và hiện thực, hình thức và nội dung… Với cốt lõi là các quy luật đối lập thống nhất. Nó là vũ trụ học nhưng cũng là nhận thức luận và phương pháp luận.

1, Heraclitus nói rằng: “Cuộc đời con người không ai có thể đặt chân hai lần trên một dòng sông”. Nhưng học trò của ông lại phát triển thành: “Cuộc đời con người một lần cũng không thể đặt chân trên cùng một dòng sông”.

Đây là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Thể hiện rằng mọi vật trên thế giới đều vận động và biến đổi. Vận động là vĩnh cửu và tuyệt đối. Tĩnh lặng là tương đối. Những sự vật tĩnh lặng tuyệt đối là không tồn tại.

Vật chất là chuyển động, chuyển động là tuyệt đối. Còn tĩnh lặng là tương đối. Trong hóa học và vật lý, các phân tử và nguyên tử luôn luôn chuyển động. Trong sự phát triển của xã hội, xã hội loài người luôn luôn tiến lên.

2, Hình thể còn tồn tại thì tinh thần cũng tồn tại. Hình thể mà biến mất thì tinh thần cũng biến mất. (Duy vật)

Tinh thần là chức năng của cơ thể (hình thức). Thể xác là bản chất của tinh thần. Khi thể xác biến mất, tinh thần bị tiêu diệt. Vật chất được chia thành vật chất hữu tri và vật chất vô tri. Con người là vật chất hữu chi, còn gỗ là vật chất vô chi. Một khi con người chết, thì sẽ trở thành vật chất vô tri. Sự thay đổi của vật chất có quy luật riêng của nó. Người sống sẽ chết, nhưng người chết không thể sống được nữa. Cây cối sống trước rồi  khô chết. Sau khi chết đi thì không thể sống lại được nữa.

>> Trình bày Ví dụ cụ thể về Phủ định biện chứng và Siêu hình trong thực tế cuộc sống

3, Trong quá trình dạy học, dạy và học hoặc giáo viên và học sinh là hai bên mâu thuẫn. Là hai mặt đối lập. Dạy không phải là học, học không phải là dạy. Cả hai có những tính quy định rõ ràng, không thể giống nhau, như nhau.

Nhưng cả hai lại thống nhất với nhau, không thể tách rời. Có dạy tức là có học. Có học tức là có dạy. Một mặt tồn tại thì mặt khác cũng tồn tại. Một mặt không tồn tại thì mặt khác cũng không thể tồn tại.

Hai mặt dạy và học lại vừa có thể chuyển hóa lẫn nhau trong những điều kiện nhất định. Dạy và học cùng phát triển. Khi bên dạy cảm thấy kiến thức không đủ, thì phải đi học. Khi bên học cảm thấy kiến thức của mình vượt qua bên dạy, thì có thể ngược lại biến học thành dạy.

Trong quá trình dạy học, có quá trình tích lũy tăng trưởng kiến ​​thức. Kiến ​​thức nắm vững đến một mức độ nhất định và đủ lượng thì mới ra trường được. Đây là sự thay đổi về lượng gây ra sự thay đổi về chất. Trong quá trình dạy học phải rút kinh nghiệm, học hỏi cái mới, khắc phục khó khăn trở ngại. Quá trình dạy học sẽ không thuận buồm xuôi gió, sẽ có sự lặp lạ. Sau mỗi lần lặp lại sẽ có những thu hoạch mới và sự tiến bộ mới. Đây chính là phủ định trong phủ định.

4, Mùa thu đến, lá cây bắt đầu rụng xuống

Nguyên nhân và kết qur: mùa thu đến là nguyên nhân, lá cây bắt đầu rụng xuống là kết quả.

Tính tất nhiên và tính ngẫu nhiên: lá cây rơi xuống một chỗ nào đó là tính ngẫu nhiên. Nhưng dưới tác động nhất định của gió, nó sẽ tất nhiên rơi xuống một nơi nào đó. Đó là tính tất nhiên.

Tính khả năng và tính hiện thực: lá cây có thể rơi xuống các phía của cây. Đây là tính khả năng. Nhưng cuối cùng chỉ rơi xuống một chỗ. Đây là tính hiện thực.

Nội dung và hình thức: bản thân chiếc lá cây là nội dung, có to có bé, có vàng có xanh là hình thức.

Hiện tượng và bản chất: lá cây biến thành màu màu là hiện tượng. Giảm diệp lục tốt là bản chất.