Ví dụ về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thương mại

Trong các hình thức trách nhiệm dân sự trong hợp đồng dân sự thì phạt vi phạm hợp đồng; bồi thường thiệt hại [BTTH] hợp đồng là những hình thức trách nhiệm thông dụng nhất. Đây là hình thức trách nhiệm dân sự do các bên thỏa thuận ghi trong hợp đồng, nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách đền bù tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại.

Thực tế giao kết hợp đồng dân sự hiện nay, hầu hết đều có thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng; BTTH do vi phạm hợp đồng Tuy nhiên, thỏa thuận về các điều khoản này như thế nào để đúng pháp luật và bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì không phải ai cũng biết. Một số quy định mới của Bộ luật Dân sự [BLDS] năm 2015, có đề cập đến những nội dung này, nhưng theo tác giả cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần ban hành hướng dẫn chi tiết hơn để các chế định này thật sự phát huy hiệu quả trong giao kết hợp đồng dân sự.
Phạt vi phạm hay còn gọi là phạt vi phạm hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm. Mức phạt vi phạm trong hợp đồng dân sự do hai bên thỏa thuận, còn trong thương mại và xây dựng thì căn cứ vào giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, và không quá 8% hoặc 12%
BLDS năm 2015 quy định những vấn đề mang tính nguyên tắc như sau:“Hợp đồng” là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ trong một sự việc hay lĩnh vực nào đó. Nếu hợp đồng trong lĩnh vực dân sự [như mua bán nhà, xe ô tô …] giữa các cá nhân với nhau, thì gọi là “hợp đồng dân sự”. Nếu hợp đồng giao kết mà trong đó ít nhất một bên tham gia có mục đích sinh lợi, thương mại và có đăng ký kinh doanh, chẳng hạn như công ty A bán sản phẩm do mình sản xuất cho công ty B, thì gọi là “hợp đồng thương mại”. Nếu hợp đồng trong những lĩnh vực được chuyên biệt hóa, có luật riêng, thì hợp đồng sẽ mang tên lĩnh vực đó. Chẳng hạn như, hợp đồng thi công xây dựng công trình ký giữa hai công ty, thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Xây dựng, thì gọi là “hợp đồng xây dựng”.
Vi phạm hợp đồng là hành vi một bên vi phạm [một hoặc nhiều] nghĩa vụ thỏa thuận trong hợp đồng mà hai bên đã ký kết.Ví dụ, Công ty A và Công ty B thỏa thuận [trong hợp đồng bán hàng] là Công ty B sẽ thanh toán tiền mua hàng vào ngày 25/4/2017. Nhưng đến ngày đó, Công ty B không thanh toán. Như vậy Công ty B bị xem là vi phạm hợp đồng. Cụ thể hơn là vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Trong điều khoản nội dung Hợp đồng bán hàng giữa hai bên có quy định: Nếu Công ty B chậm thanh toán tiền mua hàng, thì sẽ bị phạt 1% giá trị lô hàng cho mỗi ngày chậm. Đây chính là thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng. Việc phạt vi phạm hợp đồng không mang tính bắt buộc, mà do các bên thỏa thuận với nhau. Tuy nhiên thỏa thuận này [nếu có], thì phải thể hiện rõ trong hợp đồng. Nếu trong hợp đồng không có nội dung này thì xem như hai bên không thỏa thuận. Điều 418 BLDS năm 2015, quy định về thỏa thuận phạt vi phạm:

“1. Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm.


2. Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.
3. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.” Nghiên cứu nội dung quy định này có thể hiểu, không có giới hạn về mức phạt vi phạm trong dân sự, các bên có thể thỏa thuận chỉ bị phạt vi phạm mà không phải BTTH. Nếu trong hợp đồng có thỏa thuận phạt vi phạm, nhưng không đề cập việc vẫn phải BTTH thì bên vi phạm sẽ không phải BTTH. Ví dụ, ông A bán cho ông B một căn nhà. Trong hợp đồng mua bán nhà quy định nếu ông A chậm giao nhà thì bị phạt 5 triệu đồng/ngày chậm. Sau đó, ông A đã không giao nhà đúng hạn mà chậm tới 30 ngày. Do việc này, ông B phải đi thuê chỗ khác ở tạm mất 20 triệu đồng. Số tiền thuê nhà này có thể xem là thiệt hại. Nhưng do trong hợp đồng chỉ nói đến việc phạt vi phạm, mà không đề cập việc BTTH, nên ông B không có quyền yêu cầu ông A phải BTTH cho mình mà chỉ được nhận tiền phạt vi phạm. Theo quy định tại Điều 418 BLDS năm 2015, thì các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải BTTH hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải BTTH. Các bên có thể thỏa thuận trước về việc BTTH cũng như xác định trước trong hợp đồng một mức bồi thường cụ thể bằng tiền. Tuy nhiên, khác với phạt vi phạm là chỉ được áp dụng nếu như các bên có thỏa thuận trước về phạt vi phạm, đối với BTTH, cho dù các bên có thỏa thuận về vấn đề BTTH do vi phạm hợp đồng hay không, thì khi xảy ra thiệt hại, bên gây thiệt hại vẫn phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Trách nhiệm BTTH nhắm tới mục đích quan trọng nhất là bồi hoàn, bù đắp, khôi phục lợi ích vật chất bị thiệt hại cho bên bị vi phạm. Như vậy, BTTH là chế tài quan trọng và cơ bản nhất nhằm bảo đảm lợi ích của các bên khi hợp đồng bị vi phạm, tạo ra khả năng đảm bảo lợi ích một cách tối đa cho mọi bên có liên quan trong quan hệ hợp đồng. Chính vì thế, chế tài này được áp dụng cho hầu hết các hành vi vi phạm hợp đồng.

Điều 13 BLDS năm 2015 quy định: “Cá nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm được bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”. Điều 360 BLDS năm 2015 quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ: “Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”.

ThS. LÊ VĂN TRANH [Giảng viên Khoa Luật - Trường Đại học Đà Lạt]

TÓM TẮT:

Bồi thường thiệt hại là nhằm bù đắp những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng của một bên mà gây ra thiệt hại cho bên bị vi phạm. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm,“tổn thất thực tế, trực tiếp” và “khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Bồi thường thiệt hại được áp dụng theo nguyên tắc “toàn bộ” và “kịp thời”. Vì thế, khi chế tài buộc bồi thường thiệt hại được áp dụng sẽ tạo lại sự cân bằng về lợi ích đã bị mất đi của bên bị vi phạm, làm cho thiệt hại vật chất của bên bị vi phạm trở về vị trí ban đầu do họ đã được bồi thường thiệt hại. Bài viết phân tích về bồi thường thiệt hại theo Luật Thương mại năm 2005.

Từ khóa: Bồi thường thiệt hại, hợp đồng, vi phạm, tổn thất, chế tài.

1. Đặt vấn đề

Dưới góc độ pháp lý, chúng ta thấy rằng mỗi người sống trong xã hội đều phải tôn trọng quy tắc chung của xã hội, của cộng đồng và không thể vì lợi ích riêng của cá nhân mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác. Khi một chủ thể vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình mà gây tổn hại cho chủ thể khác thì chính chủ thể đó phải chịu sự bất lợi do hành vi vi phạm của mình gây ra. Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc “bù đắp tổn thất” cho chủ thể khác được hiểu là bồi thường thiệt hại. Trừ trường hợp đặc biệt, chế tài bồi thường thiệt hại trong Luật Thương mại sẽ phát sinh dù không tồn tại thỏa thuận giữa các bên khi hội tụ đủ các yếu tố, “có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại thực tế và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra”.

2. Nguyên tắc bồi thường

Theo quy định tại khoản 1 Điều 302 Luật Thương mại năm 2005, “Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Như vậy, chế tài bồi thường thiệt hại là một chế tài mang tính tài sản, việc bồi thường thiệt hại chính là bồi thường những tổn thất thực tế bị mất mát do hành vi vi phạm của một bên trong hợp đồng.

Về lý thuyết, bồi thường thiệt hại khi được áp dụng theo nguyên tắc “toàn bộ” và “kịp thời” là làm cho hành vi vi phạm hợp đồng của bên kia trong quan hệ thương mại “trở nên vô hại về mặt vật chất” đối với bên bị vi phạm hợp đồng.

Ví dụ, An là thương nhân [bên mua] và Bình cũng là thương nhân [bên bán] sản phẩm là linh kiện điện tử [chíp, màn hình LCD]. Cả hai đã ký hợp đồng mua bán linh kiện điện tử bao gồm [100 chíp bán dẫn, 500 màn hình LCD 32 inch] trị giá hợp đồng là 1,5 tỷ đồng. Do bên An đã không thanh toán tiền hàng theo thỏa thuận. Điều này làm ảnh hưởng tiêu cực tới dòng tiền của bên Bình và hệ quả làm mất đi nhiều cơ hội khác trong kinh doanh của bên Bình.

Trong trường hợp này, bên Bình có quyền yêu cầu bên An thanh toán và bồi thường thiệt hại [nếu có] do không thực hiện nghĩa vụ thanh toán đúng thời hạn như thỏa thuận. Theo đó, bên Bình cần chứng minh có thiệt hại thực tế xảy ra và thiệt hại thực tế này phát sinh trực tiếp do hành vi không thanh toán của bên An gây ra.

Ngoài ra theo quy định tại Điều 306 Luật Thương mại 2005, bên Bình còn có quyền yêu cầu khách hàng [An] trả tiền lãi quá hạn trên số tiền chậm thanh toán theo lãi suất nợ quá hạn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả.

3. Vai trò của việc áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại

Từ các phân tích trên, chúng ta thấy trong trường hợp chế tài phạt vi phạm khi được áp dụng kịp thời sẽ có những vai trò, giá trị nhất định. Vai trò của bồi thường thiệt hại là nhằm bù đắp những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng của một bên đã gây ra cho bên bị vi phạm. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm,“tổn thất thực tế, trực tiếp” và “khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”.

Ví dụ, ngày 10/10/2015, thương nhân An và thương nhân Bình ký hợp đồng mua bán gỗ thông có giá trị 1,0 tỷ đồng. Ngày giao hàng và tiền giữa hai bên là trước ngày 22/12/2015 để bên mua bán lại cho thương nhân Cư với số hàng tương tự [nhưng giá trị chênh lệch 100 triệu đồng, có nghĩa là cao hơn 10%] vào ngày 25/12/2015.

Các bên cam kết thực hiện đúng hợp đồng và thống nhất giá trị bồi thường thiệt hại tối đa là 1 tỷ đồng và chọn luật áp dụng khi xảy ra tranh chấp là Luật Thương mại năm 2005.

Tính đến hết ngày 22/12/2015, bên bán đã giao được số hàng tương đương 80% giá trị hợp đồng, số còn lại 20% An thông báo xin chuyển chậm vào trước 21 giờ ngày 23/12/2015, vì lý do xe vận chuyển gỗ bị tai nạn do trở quá trọng tải dẫn đến sập cầu trên hành trình giao hàng. Bình không đồng ý với An và đề nghị yêu cầu hủy hợp đồng và bồi thường thiệt hại 1 tỷ đồng cho Bình vì An đã vi phạm hợp đồng.

Trong ví dụ trên ta thấy có hai vấn đề, thứ nhất là “yêu cầu hủy hợp đồng” của Bình và thứ hai là “giá trị 1 tỷ đồng mà Bình yêu cầu An bồi thường”.

Đối với trường hợp thứ nhất là yêu cầu hủy hợp đồng của Bình là không có cơ sở, bởi các bên “không có thỏa thuận khác” khi áp dụng chế tài hủy hợp đồng thì chế tài hủy hợp đồng chỉ có thể áp dụng khi có hành vi “vi phạm cơ bản” nghĩa vụ hợp đồng theo Luật Thương mại. Trong trường hợp này, Bình mua hàng về với mục đích để bán lại cho Cư nhằm hưởng chênh lệch [10% giá trị hợp đồng], mà ngày Bình giao hàng cho Cư là ngày 25/12/2015. Do đó, việc An xin giao chậm hàng vào trước 21 giờ ngày 23/12/2015 thì về nguyên tắc là An có hành vi vi phạm hợp đồng nhưng chưa đến mức “vi phạm cơ bản”, vì nếu có giao chậm thì hợp đồng giữa Bình và Cư vẫn tồn tại [mục đích giao kết của Bình vẫn đạt được] không làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện hợp đồng giữa Bình và Cư.

Thứ hai, Bình yêu cầu được bồi thường thiệt hại 1 tỷ đồng là chưa thuyết phục. Theo Luật Thương mại căn cứ phát sinh bồi thường thiệt hại khi hội đủ các yếu tố“có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại thực tế và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra” và như vậy trong trường hợp trên, An có hành vi vi phạm hợp đồng nhưng chưa “gây thiệt hại thực tế” cho Bình, nên không thể áp dụng chế tài buộc bồi thường thiệt hại được. Hơn nữa, giá trị bồi thường được Luật Thương mại quy định,“tổn thất thực tế, trực tiếp” và “khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Trong trường hợp này, nếu như bên bán xin giao chậm như trên thì cũng không làm cho thương nhân Bình bị “tổn thất”. Mặt khác, do pháp luật thương mại quy định mức bồi thường phải dựa trên thiệt hại thực tế, có nghĩa là thiệt hại tới đâu thì mới được quyền yêu cầu bồi thường đến đó, Luật Thương mại không cho phép các bên thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại, theo đó về nguyên tắc những thỏa thuận này sẽ bị Toà án tuyên vô hiệu khi xảy ra tranh chấp.

Thông qua ví dụ trên ta thấy, để được áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại thì phải có đủ các căn cứ phát sinh. Nếu khi có đủ căn cứ phát sinh thì chế tài bồi thường thiệt hại khi được áp dụng sẽ bù đắp được tổn thất cho bên bị vi phạm, làm cho hành vi vi phạm hợp đồng trở nên vô hại về mặt vật chất đối với bên bị vi phạm. Thực tế không chủ thể nào muốn mình là người phải chịu trách nhiệm chính trong việc bồi thường, nhưng nếu trên thực tế điều này xảy ra thì cho dù muốn hay không muốn chủ thể đó phải có trách nhiệm “bồi thường thiệt hại” theo nguyên tắc “toàn bộ” và “kịp thời”.

Việc bồi thường “toàn bộ” thể hiện một triết lý sâu sắc rằng không ai được lợi từ việc vi phạm hợp đồng, không ai được nhiều hơn số thực tế bị thiệt hại và cũng theo lẽ đó chủ thể vi phạm chỉ phải bồi thường những thiệt hại do chính mình gây ra mà thôi. Việc bồi thường kịp thời có vai trò quan trọng, vì nó bù đắp lại những mất mát về vật chất cho bên bị vi phạm, để bên bị vi phạm sớm ổn định, không bị xáo trộn về thời gian, công việc và các dự định cho công việc ở hiện tại hoặc tương lai.

Bồi thường thiệt hại còn có tác dụng như là một thông điệp mang tính răn đe tất cả những chủ thể khác khiến họ phải kiềm chế, tự giữ mình không vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm hợp đồng trong thương mại nói riêng. Đây cũng là một biện pháp giáo dục các tổ chức và các cá nhân có ý thức tôn trọng và thực hiện nghiêm minh pháp luật và các quy tắc của cuộc sống cộng đồng, làm cho mọi người tin tưởng vào công lý. Tuy vậy, nếu có thể phân định thì bồi thường thiệt hại trong Luật Thương mại có thể xem xét vai trò, chức năng ở các góc độ cụ thể sau:

Thứ nhất, bồi thường thiệt hại phải được bồi thường “toàn bộ”. Điều này thể hiện một triết lý sâu sắc rằng không ai được lợi từ việc bị thiệt hại và cũng không ai phải bồi thường vượt quá phần thiệt hại mà mình đã gây ra. Nguyên tắc này đảm bảo cho các chủ thể cần có biện pháp phòng ngừa hợp lý, tránh tình trạng một bên cố ý tạo ra những tình huống gây ra thiệt hại để thu lợi. Hiện nay, thiệt hại được bồi thường toàn bộ có hai cách hiểu:

Một là, thiệt hại được bồi thường toàn bộ là việc bồi thường toàn bộ những thiệt hại mà bên bị vi phạm phải gánh chịu, do hành vi vi phạm gây ra đều được bồi thường;

Hai là, thiệt hại được bồi thường toàn bộ là việc bồi thường toàn bộ những thiệt hại do Luật Thương mại quy định thì bên bị vi phạm đều được bồi thường.

Tác giả ủng hộ quan điểm thứ nhất vì xuất phát từ tính chất thực tế của thiệt hại và chỉ những thiệt hại nào có mối quan hệ nhân quả với hành vi vi phạm mới được bồi thường.

Do đó, để bồi thường thiệt hại thì bên bị thiệt hại phải chứng minh được thiệt hại mình phải gánh chịu là kết quả do hành vi vi phạm gây ra. Đối với quan điểm thứ hai, dù những thiệt hại được luật định, nhưng nếu không chứng minh được có mối quan hệ nhân quả với hành vi vi phạm thì không thể buộc bên vi phạm bồi thường thiệt hại. Bởi vì một chủ thể về nguyên tắc công bằng thì chỉ có thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho chủ thể khác mà do chính hành vi vi phạm trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra.

Thứ hai, việc bồi thường phải được thực hiện một cách “kịp thời”. Điều này được hiểu về mặt thời gian nếu có thiệt hại thì phải được bồi thường một cách nhanh chóng nhất, kịp thời nhất. Vì thực tế cho thấy, nếu để thời gian kéo dài càng lâu thì thiệt hại có thể càng gia tăng nghiêm trọng. Việc đặt ra nguyên tắc bồi thường thiệt hại kịp thời không những giúp bên bị vi phạm nhanh chóng khắc phục thiệt hại, phục hồi hoạt động kinh doanh bình thường, mà còn giúp cho bên vi phạm giảm bớt một phần thiệt hại phải bồi thường.

Việc đưa ra những nguyên tắc bồi thường thiệt hại xuất phát từ bản chất của chế tài bồi thường thiệt hại là bù đắp, bồi hoàn lại những thiệt hại mà bên bị vi phạm phải gánh chịu. Nên bên bị thiệt hại cần được đền bù toàn bộ để có thể khôi phục lại lợi ích vật chất bị tổn thất của mình, hoặc diễn đạt theo cách khác bên được bồi thường thiệt hại không vì việc được bồi thường mà có lợi hơn trong trường hợp nghĩa vụ trong hợp đồng được thực hiện như đã thỏa thuận trước đó. Điều này gián tiếp làm cho hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm đối với bên bị vi phạm trong hợp đồng trở nên vô nghĩa về mặt vật chất [do hành vi vi phạm đã được bồi thường thiệt hại toàn bộ và kịp thời].

Nguyên tắc này còn được Công ước Viên quy định rất cụ thể tại Điều 74, “Tiền bồi thường thiệt hại này không thể cao hơn tổn thất và số lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào lúc ký kết hợp đồng như một hậu quả có thể xảy ra do vi phạm hợp đồng, có tính đến các tình tiết mà họ đã biết hoặc phải biết”. Mặc dù Luật Thương mại hiện hay không quy định hoàn toàn như Công ước Viên, nhưng về bản chất bồi thường và chỉ bồi thường được xác định: “Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra” và những khoản lợi “trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng” nếu không có hành vi vi phạm”. Trong thực tiễn xét xử, khi xem xét mức bồi thường thiệt hại thì Tòa án luôn xem xét tới nguyên lý bồi thường này để giải quyết yêu cầu bồi thường. Vì bản chất mục đích của bồi thường thiệt hại là đưa lợi ích vật chất của bên bị thiệt hại vào vị trí mà lẽ ra họ phải có nếu phía bên kia thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Điều này có nghĩa là, không thể có trường hợp là một bên bất kỳ nào lợi dụng hoặc được hưởng lợi mà không có căn cứ, khi thông qua yêu cầu bồi thường thiệt hại.

4. Kết luận

Chế tài bồi thường thiệt hại trong Luật Thương mại 2005 đã và đang phát huy tốt vai trò, chức năng của mình. Nguyên tắc bồi thường “toàn bộ” và “kịp thời” đã giúp các bên bảo vệ một cách tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm hại và nguyên tắc đó đã khôi phục lại những giá trị vật chất đã bị mất, làm cho yếu tố vật chất trở lại vị trí ban đầu mà họ đáng lẽ được hưởng. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một quy định hợp lý thể hiện rõ chức năng là một chế tài dân sự trong quan hệ hợp đồng khi mà hoạt động kinh doanh trong môi trường cạnh tranh ngày một khốc liệt.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Luật Thương mại năm 2005

2. Luật Dân sự năm 2005

3. Công ước Viên 1980

4. Trường Đại học Luật Hà Nội [2008], Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, NXB Công an nhân dân.

5. Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh [2013], Giáo trình pháp luật về thương mại hàng hóa và dịch vụ, NXB Hồng Đức.

6. Dương Anh Sơn [2010], Tài liệu hội thảo khoa học: “Không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật thực định Việt Nam”.

ANALYZING COMPENSATION REGULATIONS OF THE VIETNAM COMMERCIAL LAW 2005

Master. LE VAN TRANH

Lecturer, Faculty of Law, Dalat University

ABSTRACT:

Compensation is to offset losses which are caused by actions violating contracts. The compensation usually covers “actual direct losses” and “benefits that harmed parties would have if no violation had been committed”. The compensation is usually determined according to “completed” and “timely” regulations. Therefore, the imposing compensation sanctions could offset losses of harmed parties and create an economical balance between involved parties. This study is to analyze compensation regulations of the Vietnam Commercial Law 2005. 

Keywords: Compensation, contract, violation, loss, sanction.


Xem toàn bộ ấn phẩm Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 04 + 05 tháng 04/2017 tại đây

Video liên quan

Chủ Đề