Ví dụ phương pháp thí nghiệm ở tiểu học

Có thể nói, phương pháp thí nghiệm là tối quan trọng trong nghiên cứu khoa học. Ngày nay, thí nghiệm đã được sử dụng rộng rãi trong khoa học tự nhiên, khoa khoa học kỹ thuật và cả trong khoa học xã hội.

Định nghĩa phương pháp thí nghiệm

Thí nghiệm là phương pháp nghiên cứu các sự vật, hiện tượng bằng cách sử dụng các phương tiện vật chất để can thiệp vào trạng thái tự nhiên của chúng nhằm tạo xa cho chúng những điều kiện nhân tạo, tách chúng thành các bộ phận và kết hợp chúng lại, sản sinh chúng dưới dạng “thuần khiết”.

Ví dụ:

– Nhúng một thanh kim loại vào bình a-xít để nghiên cứu độ bền của thanh kim loại đó.

– Bác sỹ thí nghiệm vắc-xin ở loài thỏ trước, nếu kết quả tốt thì sẽ đem vắc-xin chữa bệnh ở người theo quy mô tăng dần.

Đặc điểm của phương pháp thí nghiệm

– Nhờ có thí nghiệm, người ta khám phá ra những thuộc tính của hiện tượng mà trong những điều kiện tự nhiên không thể khám phá được.

– Nếu như trong quan sát, chủ thể không can thiệp vào trạng thái tự nhiên của khách thể, thì trong thí nghiệm chủ thể chủ động tác động lên khách thể, thay đổi những điều kiện tồn tại tự nhiên của khách thể, buộc khách thể phải bộc lộ bản tính của mình cho chủ thể nhận thức.

Trong thí nghiệm, chủ thể vẫn tiến hành quan sát nhưng ở mức độ cao hơn.

– Thí nghiệm bao giờ cũng được tổ chức thực hiện dưới sự chỉ đạo của một ý tưởng khoa học và trên cơ sở một lý thuyết khoa học nhất định, từ khâu lựa chọn thí nghiệm, lập kế hoạch, tiến hành thí nghiệm cho đến giải thích kết quả thí nghiệm.

– Thí nghiệm không chỉ nhằm thu thập các dữ kiện khoa học để tạo cơ sở cho sự khái quát lý luận mà còn nhằm bác bỏ hoặc nhằm chứng minh [kiểm chứng] một giả thuyết khoa học nào đó.

Trong nhận thức khoa học, giả thuyết giữ vai trò quan trọng. Có thể nói giả thuyết là một hình thức phát triển của khoa học.

Nhờ có thí nghiệm, người ta chính xác hóa, chỉnh lý các giả thuyết và lý thuyết khoa học. Thí nghiệm như một dạng cơ bản của thực tiễn, giữ vai trò là cơ sở của nhận thức khoa học và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý của nhận thức khoa học.

8910X.com

Bài liên quan:

Xin mời các bạn đưa ra một vài bình luận để bài viết có thể hoàn thiện hơn.

Nếu còn điều gì chưa rõ, bạn hãy để lại câu hỏi ở phần comment để mình có thể giải đáp khi thời gian cho phép nhé!

     Như chúng ta đã biết, học sinh chỉ học tập đạt kết quả tốt khi yêu thích môn học đồng thời các em cũng tìm được cảm hứng từ môn học đó. Việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới hình thức tổ chức hoạt động là một việc làm không phải dễ và cũng không phải ngày một ngày hai mà làm được. Nó đòi hỏi một sự đầu tư lâu dài, một quá trình rèn luyện không ngừng của người giáo viên. Mỗi một sự cố gắng dù rất nhỏ trong nhận thức của giáo viên về đổi mới phương pháp, hình thức dạy học đều là động lực tạo hứng thú học tập cho các em học sinh, góp phần nâng chất lượng dạy và học.   

     Ngay từ đầu năm học khi mới nhận lớp, các em lớp tôi rất thụ động trong việc chuẩn bị bài ở nhà, nhút nhát khi tham gia hoạt động nhóm, nói nhỏ, thiếu tự tin trong giao tiếp và bày tỏ ý kiến riêng. Vậy làm sao để các em có thể hoàn thành tốt các môn học về kiến thức lẫn kĩ năng sống hàng ngày của các em ? Việc dạy cho các em biết tính toán, đọc và viết là những việc làm tương đối đơn giản. Nhưng còn các phân môn học khác như Khoa học, Lịch sử, Địa lí,... thì sao ? Vì như ta đã biết, môn Khoa học là môn vừa chứa các yếu tố xã hội vừa chứa các yếu tố tự nhiên. Qua môn học này, người giáo viên không chỉ giáo dục cho các em lòng say mê Khoa học mà còn giáo dục cho các em lòng yêu quê hương, đất nước. Từ những băn khoăn, trăn trở đó tôi đã mạnh dạn chọn, nghiên cứu và đưa ra một số giải pháp sau giúp học sinh hứng thú với môn Khoa học: “Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh lớp 4 học môn Khoa học”

PHẦN I : MỞ ĐẦU

     I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 

     Từ xưa, ông cha ta có câu “Tiên học lễ, hậu học văn”. Đúng vậy, lễ nghĩa bao giờ cũng đi đầu trong việc quan sát, nhìn nhận và đánh giá một con người trong giao tiếp. Tuy nhiên việc giao tiếp đó có thành công không, có hiệu quả không lại còn liên quan đến một vấn đề khác đó là văn hóa. Trình độ văn hóa giúp chúng ta rất nhiều trong cuộc sống. Bác Hồ kính yêu của chúng ta từng nói : “Có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức thành người vô dụng”. Chính vì lẽ đó mà việc giáo dục con người phải song song hai mặt.

      Đúng vậy, để việc giáo dục con người trở thành người toàn diện hai mặt là việc làm không dễ. Ngay trong thời điểm này đây, trọng trách của nhà trường, của người giáo viên nhất là giáo viên chủ nhiệm lớp phải phát huy hết năng lực của mình, phải làm sao cho học sinh thấy được “Mỗi ngày đến trường là một niềm vui”, và như đồng chí Phạm Văn Đồng đã nói: “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất vì nó tạo ra những con người sáng tạo”.

      Học sinh chỉ học tập đạt kết quả tốt khi yêu thích môn học đồng thời các em cũng tìm được cảm hứng từ môn học đó. Việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới hình thức tổ chức hoạt động là một việc làm không phải dễ và cũng không phải ngày một ngày hai mà làm được. Nó đòi hỏi một sự đầu tư lâu dài, một quá trình rèn luyện không ngừng của người giáo viên. Mỗi một sự cố gắng dù rất nhỏ trong nhận thức của giáo viên về đổi mới phương pháp, hình thức dạy học đều là động lực tạo hứng thú học tập cho các em học sinh, góp phần nâng chất lượng dạy và học. 

     Để thực hiện điều này, từ thực tế thực hiện nhiệm vụ trong nhiều năm học qua, tôi đã đúc kết được “Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh lớp 4 học môn Khoa học” và trong năm học 2016-2017, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài này để nghiên cứu.

     Trên cơ sở thực tiễn việc học tập môn Khoa học của học sinh chưa phát huy tính tích cực chủ động tư duy, đề ra các biện pháp nhằm tạo hứng thú cho học sinh lớp 4 học môn Khoa học, nâng cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo tìm tòi kiến thức mới của học sinh.

     III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

     Để làm rõ được mục đích tôi đã nói ở trên, tôi đã thấy đối tượng nghiên cứu là học sinh ở lớp 4 Trường Tiểu học Hoàng Văn Thụ - Hoàng Mai - Hà Nội.  Trong hai năm học gần đây nhất đó là 2017-2018 và năm học 2018-2019. Tôi đã thực nghiệm nghiên cứu trên tất cả các đối tượng học sinh lớp 4, lấy kết quả đối chứng trong từng giai đoạn của hai năm sau khi dạy môn Khoa học 4.

     IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Xuất phát từ tình hình thực tế, để các em hứng thú, tích cực, chủ động, sáng tạo tìm tòi kiến thức Khoa học mới của học sinh, tôi lần lượt nghiên cứu phương pháp dạy môn Khoa học này với từng bước sau:

Nội dung được lựa chọn thiết thực, gần gũi và có ý nghĩa với học sinh; giúp học sinh có thể vận dụng những kiến thức khoa học vào cuộc sống hàng ngày.

Chú trọng hình thành và phát triển các kỹ năng trong học tập khoa học như quan sát, dự đoán, giải thích các sự vật, hiện tượng tự nhiên đơn giản và kỹ năng vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống.

Tăng cường tổ chức tổ chức hoạt động học tập nhằm tạo điểu kiện cho học sinh phát huy tính tích cực, tự lực tìm tòi phát hiện ra kiến thức và thực hành những hành vi có lợi cho sức khỏe cá nhân, gia đình và cộng đồng.

Để giải quyết được nhiệm vụ trên, tôi bám sát vào các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học Khoa học ở Tiểu học nói chung, ở lớp 4 nói riêng sao cho phù hợp đặc điểm tâm sinh lí và nhận thức của học sinh, giúp các em có hứng thú khi học Khoa học, tạo không khí học tập sôi nổi, chất lượng.

     V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

  1.  Phương pháp nghiên cứu, lí luận

     Đọc các tài liệu cần thiết.

     Tìm hiểu sách giáo khoa, sách giáo viên, chương trình liệu bồi dưỡng giáo viên, sách tham khảo.

     2. Phương pháp điều tra quan sát

     Tìm hiểu, phỏng vấn giáo viên.

     Điều tra học sinh, các loại vở bài tập.

     3. Phương pháp kiểm tra, thống kê kết quả

     Kiểm tra chất lượng qua mỗi giai đoạn.

     Thống kê kết quả ở từng giai đoạn.

     4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm

     Giáo viên rút kinh nghiệm cho mình, tổng kết thành các bài học cơ bản.

     VI. PHẠM VI NGHIÊN CỨU

     Từ những năm trước, tôi đã nghiên cứu rất nhiều phương pháp  dạy học của các lớp 4-5, năm học 2017-2018 và năm học 2018-2019, tôi đặc biệt đã chú trọng đến phương pháp dạy tạo hứng thú cho học sinh lớp 4 học môn Khoa học. Mục đích chính là giúp các em hứng thú, tích cực, chủ động, sáng tạo tìm tòi kiến thức Khoa học mới. Cho nên cái chính là tôi muốn giúp các em không những có phương pháp hứng thú khi học Khoa học mà còn giúp các em có kĩ năng nhận biết, so sánh, đối chiếu sự giống nhau và khác nhau ở các bài học, từ đó các em hệ thống được kiến thức logic, dễ nhớ. Vậy nên, chúng ta phải có phương pháp khéo léo phù hợp với quá trình nhận thức của các em, giúp các em nhẹ nhàng tiếp thu, không gò bó, nhớ được sâu sắc kĩ năng tìm tòi kiến thức Khoa học.

     VII. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU

     Để thực hiện được mục tiêu của mình đề ra, tôi đã lập kế hoạch về thời gian và nội dung thực hiện theo từng bước sau:

Bước 1 : Tập hợp lại kết quả chất lượng sau khi học ở mỗi bài trong từng chủ đề của năm học 2017-2018 để lấy kết quả thực nghiệm đối chiếu với năm học 2018-2019.

Bước 2: Tổ chức chuyên đề phương pháp dạy học bàn tay nặn bột, phát triển năng lực, để giáo viên khối 4 nắm và truyền thụ cho tất cả học sinh khối 4.

Bước 3: Khảo sát chất lượng lấy kết quả ở các bài học điển hình của Khoa học 4.

Bước 4: Cùng giáo viên khối 4 thảo luận phân tích, so sánh sự giống nhau và khác nhau ở mỗi bài học trong từng chủ đề, thống nhất phương pháp rèn luyện, tạo hứng thú cho học sinh,

Bước 5: Lập kế hoạch cho tất cả học sinh lớp 4 luyện tập tìm hiểu kiến thức Khoa học.

Bước 6: Khảo sát chất lượng sau một thời gian luyện tập, lấy kết quả đối chiếu.

Bước 7: Phân tích, đánh giá, rút ra những kinh nghiệm khi dạy học môn Khoa học 4.

PHẦN II : NỘI DUNG

     I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

     1. Cơ sở lý luận :

      “Chính sự quan tâm, lòng yêu thương và sự chia sẻ của người thầy đã giúp những đứa trẻ phát huy hết khả năng của chúng” [Jonh O.Brien]. Đúng vậy, người giáo viên tiểu học là người trực tiếp giảng dạy hầu hết các môn học, là người quản lý toàn diện một tập thể học sinh của một lớp và có nhiều thời gian gắn bó, gần gũi với học sinh. Hơn nữa về trình độ hiểu biết và vốn sống của học sinh tiểu học còn nhiều hạn chế vì vậy các em rất cần có một người thường xuyên quan tâm, hướng dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo, dìu dắt. Người giáo viên tiểu học giống như một người chăm sóc cho hạt giống nảy mầm, hàng ngày hàng giờ phải theo dõi từng sự thay đổi, từng bước phát triển của hạt giống ấy sao cho chúng thành cây non khoẻ mạnh và tiếp tục trưởng thành.

     Luật Giáo dục của Nhà nước ta quy định: “Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở” [Mục 2, Điều 27].

     Bởi vậy, để giúp các em có kĩ năng quan sát tốt, thực hành tốt, tự tin và mạnh dạn trong các hoạt động học tập thì người giáo viên tiểu học là người đóng vai trò vô cùng quan trọng. Các thầy giáo, cô giáo phải động viên, khích lệ các em thật nhiều để các em phát huy hết khả năng của mình: “Đừng xấu hổ khi không biết, chỉ xấu hổ khi không học” [Ngạn ngữ Nga].

     2. Thực tiễn:

     Ngay từ đầu năm học khi mới nhận lớp, các em rất thụ động trong việc chuẩn bị bài ở nhà, nhút nhát khi tham gia hoạt động nhóm, nói nhỏ, thiếu tự tin trong giao tiếp và bày tỏ ý kiến riêng. Vậy làm sao để các em có thể hoàn thành tốt các môn học về kiến thức lẫn kĩ năng sống hàng ngày của các em ? Việc dạy cho các em biết tính toán, đọc và viết là những việc làm tương đối đơn giản. Nhưng còn các phân môn học khác như Khoa học, Lịch sử, Địa lí,... thì sao ? Vì như ta đã biết, môn Khoa học là môn vừa chứa các yếu tố xã hội vừa chứa các yếu tố tự nhiên. Qua môn học này, người giáo viên không chỉ giáo dục cho các em lòng say mê Khoa học mà còn giáo dục cho các em lòng yêu quê hương, đất nước. Từ những băn khoăn, trăn trở đó tôi đã mạnh dạn chọn và nghiên cứu đề tài này.

      Đây là đề tài sáng kiến kinh nghiệm mà tôi đã thực hiện từ nhiều năm học trước. Sau đó rút kinh nghiệm, bổ sung  và  sẽ được hoàn thiện vào cuối năm học 2018-2019. Với đề tài sáng kiến kinh nghiệm này tôi chỉ hướng vào các nội dung cơ bản sau đây :

     1. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài và đồ dùng học tập.

     2. Tổ chức hoạt động dạy học dưới dạng các trò chơi-Gameshow.

     3.  Tổ chức cho học sinh thực hành-thí nghiệm.

     II. THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC

     Qua một số tiết dạy những ngày đầu năm học, tôi nhận thấy một số tồn tại trong công việc học môn Khoa học của những học sinh lớp 4A1 là tính tích cực học tập của các em còn rất yếu, thể hiện qua một số dấu hiệu sau:

        + Học sinh ít giơ tay phát biểu ý kiến của mình về các vấn đề giáo viên nêu ra [chỉ có 10% số học sinh cả lớp tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài trong mỗi tiết học]

        + Nếu được hỏi, học sinh chủ yêu lệ thuộc vào SGK, ít tư duy [95%].

        + Không thắc mắc hay đòi hỏi giáo viên phải giải thích cặn kẽ những vấn đề mà mình chưa hiểu rõ [98%].

        + Học sinh không có thói quen sưu tầm tư liệu phục vụ bài học; nếu có thì số lượng tranh rất ít, chất lượng sưu tầm chưa đúng yêu cầu bài học. Không khí của lớp rất buồn tẻ hoặc ít sôi nổi khi học sinh không thực hiện được yêu cầu của giáo viên.

     Từ thực trạng trên, tôi thấy cần phải đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh trong giờ học môn Khoa học nhằm tạo hứng thú cho học sinh với môn học này.

     III. CÁC GIẢI PHÁP CHÍNH

     Tận dụng tiềm năng giáo dục trong trường và ngoài xã hội để đạt tới hiệu quả trong việc thực hiện giáo dục là một nhiệm vụ đặc trưng của người giáo viên trong trường phổ thông. Giải quyết tốt nhiệm vụ này cũng chính là thực hiện xã hội hoá giáo dục, một trong những giải pháp trọng yếu thực hiện chiến lược phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.

     Để làm tốt công tác giáo dục học sinh, nhiệm vụ đầu tiên của tôi là nghiên cứu để nắm vững tình hình học tập chung của lớp và của từng học sinh. Tạo điều kiện cho từng học sinh  thể hiện sự quan tâm của mỗi thành viên trong lớp.

     Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học các môn học nhất là môn Khoa học là rất phong phú và đa dạng: Thực hành-thí nghiệm, thảo luận nhóm, sắm vai, trò chơi học tập, giải quyết tình huống có vấn đề. Mỗi phương pháp dạy học đều có mặt tích cực và hạn chế riêng. Vì vậy người giáo viên không nên lạm dụng phương pháp nào. Cần phải cân nhắc kĩ nội dung, tính chất của mỗi bài dạy; căn cứ vào nhận thức của học sinh, năng lực sở trường của giáo viên; vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng lớp, của trường mà lựa chọn sử dụng các phương pháp dạy học cho hiệu quả.

     Giải pháp 1. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài và đồ dùng học tập   

     Sự chuẩn bị đồ dùng dạy học của giáo viên hay đồ dùng học tập của học sinh đối với mỗi tiết học là một việc làm vô cùng quan trọng, hiệu quả tiết học đạt được ở mức độ nào là tùy thuộc vào khâu chuẩn bị rất cao. Vì vậy, giáo viên phải dành nhiều thời gian để chuẩn bị hoặc giao cho học sinh chuẩn bị.

     Chẳng hạn: Để chuẩn bị cho các bài học của ngày hôm sau, tôi cho học sinh ghi vở dặn dò: Đọc và trả lời các câu hỏi ở sách giáo khoa; sưu tầm tư liệu, tranh ảnh hoặc dụng cụ học tập liên quan đến nội dung bài học. Đầu giờ học hôm sau, từng bàn 2 em sẽ tự kiểm tra cho nhau về sự chuẩn bị của bạn mình, sau đó báo cáo lại với tổ trưởng. Đến đầu mỗi tiết học, các tổ trưởng sẽ thông báo lại kết quả chuẩn bị của tổ mình trước lớp với giáo viên. Căn cứ vào đó, tôi sẽ ghi điểm thi đua cho các tổ, cuối tuần vào tiết sinh hoạt tập thể sẽ tuyên dương tổ nào học tập tốt, nề nếp tốt, chuẩn bị chu đáo phần dặn dò về nhà; tổ nào điểm thấp nhất sẽ phải trực vệ sinh cho tuần học kế tiếp.

     Việc dặn dò chuẩn bị bài cho ngày hôm sau như tôi đã thực hiện cũng có nhiều tác dụng: thứ nhất thông qua việc đọc và trả lời các câu hỏi, các em được rèn luyện kĩ năng ghi chép sau khi quan sát; thứ ba tích hợp được bộ môn Mĩ thuật trong quá trình vẽ tranh.

      Một vài ví dụ về phần nội dung dặn dò cho các bài học:

Bài 7. Tại sao cần ăn phối hợp nhiều loại thức ăn ?  [sưu tầm các đồ chơi bằng nhựa như gà, cá, tôm, cua, …]. Mục đích là giúp các em phân loại tên nhóm thức ăn cần ăn đủ, ăn có mức độ, ăn ít và ăn hạn chế. Đồng thời giúp các em có dụng cụ để tham gia trò chơi học tập theo nhóm.

Bài 9. Sử dụng hợp lí các chất béo và muối ăn [Sưu tầm tranh ảnh, thông tin, nhãn mác quảng cáo về các thực phẩm có chứa i-ốt và vai trò của i-ốt đối với sức khỏe; Có thể vẽ tranh tuyên truyền, cổ động liên quan đến thực phẩm có chứa i-ốt]. Qua việc tìm hiểu, sưu tầm các em sẽ nắm được ích lợi cũng như tác hại của i-ốt đối với sức khỏe.

Bài 10. Ăn nhiều rau và quả chín. Sử dụng thực phẩm sạch và an toàn.    

- Yêu cầu các em chuẩn bị theo nhóm, như : Một số rau, quả [cả loại tươi và héo úa]; một số đồ hộp hoặc vỏ đồ hộp.  

àMục đích giúp các em biết phân biệt được tiêu chuẩn của thực phẩm sạch và an toàn, biện pháp thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm; biết xem hạn sử dụng các thức ăn, thức uống đóng hộp, đóng chai.

Hoặc:

Bài 18, 19. Ôn tập : Con người và sức khỏe [Phiếu học tập ghi lại tên thức ăn, thức uống của bản thân học sinh trong tuần qua. Các tranh, ảnh, mô hình như: các loại rau, quả, con giống bằng nhựa hay vật thật các loại thức ăn. Để các em củng cố lại chất dinh dưỡng trong thức ăn, vai trò của chúng. Từ đó các em sẽ ghi nhớ sâu hơn về cách chọn rau, củ, quả tươi ngon.     

Bài 20. Nước có những tính chất gì ?  [Chuẩn bị theo nhóm : 2 cốc thủy tinh giống nhau : 1 cốc đựng nước, 1 cốc đựng sữa; chai và một số vật chứa nước có hình dạng khác nhau bằng thủy tinh hoặc bằng nhựa trong có thể nhìn thấy bên trong; 1 tấm kính hoặc 1 mặt phẳng không thấm nước và 1 khây đựng nước-như hình SGK/tr43; 1 miếng vải, bông, giấy thấm, miếng mút, túi nilong…; một ít đường, muối, cát,… và thìa]. Xuất phát từ cuộc sống hàng ngày, các em sẽ dự đoán và làm được thí nghiệm với những gì mình chuẩn bị được để tìm hiểu kiến thức về tính chất, hình dạng của nước.

Bài 25. Nước bị ô nhiễm.  [Chuẩn bị theo nhóm : 1 chai nước ao, hồ hoặc nước đã giặt khăn lau bảng, 1 chai nước giếng hoặc nước máy; 2 chai không có nước; 2 phễu lọc nước; bông để lọc nước.  1 kính lúp [nếu có]]. Đây là những vật dụng hàng ngày các em đều có thể chuẩn bị được và sẽ quan sát, làm thí nghiệm để biết được  một số đặc điểm của nước sạch và nước bị ô nhiễm.   

Bài 30. Làm thế nào để biết có không khí ? [Chuẩn bị theo nhóm : các túi nilong to, dây thun, kim khâu, chậu hoặc bình thủy tinh, chai không, 1 miếng bọt biển hoặc 1 viên gạch hay cục đất khô]. Các em sẽ dùng những vật dụng này để làm thí nghiệm chứng minh không khí có ở quanh mọi vật và các chỗ rỗng trong các vật.

Bài 31. Không khí có những tính chất gì ? [Chuẩn bị theo nhóm : 8-10 quả bóng với hình dạng khác nhau, chỉ hoặc thun để buộc bóng; bơm xe đạp [nếu có]] để các em chơi “Thi thổi bóng” và làm thí nghiệm chứng minh không khí không có hình dạng nhất định, không khí có thể bị nén lại hoặc giãn ra.

Bài 33, 34. Ôn tập và kiểm tra cuối học kì I - trang 68 [Chuẩn bị : Sưu tầm các tranh ảnh hoặc đồ chơi về việc sử dụng nước, không khí trong sinh hoạt, lao động sản xuất và vui chơi giải trí]. Các em sử dụng những gì mình chuẩn bị được để tham gia trò chơi “Ai nhanh, ai đúng ?” và “Triển lãm tranh” về vai trò của nước và không khí.

Bài 35. Không khí cần cho sự cháy [Chuẩn bị theo nhóm : 2 lọ thủy tinh : 1 lọ to, 1 lọ nhỏ; 2 cây nến bằng nhau; 1 lọ thủy tinh không đáy hoặc ống thủy tinh, đế kê – như hình vẽ SGK]. Các em sẽ dự đoán và làm thí nghiệm chứng minh càng có nhiều không khí thì càng có nhiều ô-xy để duy trì sự cháy được lâu hơn; muốn sự cháy diễn ra lâu hơn  thì không khí phải được lưu thông.  

Bài 41. Âm thanh [Chuẩn bị theo nhóm : Ống bơ [lon sữa bò], thước, vài hòn sỏi; trống nhỏ, một ít giấy vụn; kéo, lược; …] để các em biết cách và thực hiện được các cách khác nhau để làm cho vật phát ra âm thanh. Làm thí nghiệm chứng minh về sự liên hệ giữa rung động và sự phát ra âm thanh.  

Bài 45. Ánh sáng [Chuẩn bị theo nhóm : hộp kín [có thể dùng tờ giấy báo cuộn lại để tạo thành hộp kín]; tấm kính, nhựa trong; tấm kính mờ; tấm ván;… ]. Các em sẽ cùng làm thí nghiệm chứng tỏ ánh sáng truyền theo đường thẳng, chứng tỏ mắt chỉ nhìn thấy một vật khi có ánh sáng từ vật đó đi tới mắt và phân biệt được vật tự phát sáng và vật được chiếu sáng.

Bài 46. Bóng tối [Chuẩn bị theo nhóm : đèn pin, tờ giấy to hay tấm vải, kéo, bìa, một số vật như ô tô đồ chơi, thú nhồi bông, hộp, … ]. HS dự đoán và làm thí nghiệm để biết được vị trí, hình dạng của bóng tối, bóng tối xuất hiện phía sau vật cản sáng khi được chiếu sáng, … 

Bài 50. Nóng, lạnh và nhiệt độ [Chuẩn bị chung : Một số loại nhiệt kế, phích nước sôi, một ít nước đá.  Chuẩn bị theo nhóm : nhiệt kế, 3 chiếc ly ]. Giúp HS biết cách  đọc nhiệt kế và sử dụng nhiệt kế thật. Biết đo nhiệt độ cơ thể người; nhiệt độ của hơi nước đang sôi; nhiệt độ của nước đá đang tan.

Bài 52. Vật dẫn nhiệt và vật cách nhiệt [Chuẩn bị chung : phích nước nóng, xoong, giỏ ấm, cái lót tay.  Chuẩn bị theo nhóm : 2 chiếc cốc như nhau, muỗng kim loại, muỗng gỗ, muỗng nhựa, vài tờ giấy báo; dây chỉ, len hoặc sợi; nhiệt kế ]. Sau thí nghiệm các em sẽ lí giải việc sử dụng các chất dẫn nhiệt, các chất cách nhiệt và sử dụng hợp lí  trong những trường hợp đơn giản, gần gũi. Biết được những vật dẫn nhiệt tốt và vật dẫn nhiệt kém.

Vâng, thật sự hiệu quả, trước đây các em chỉ tìm hiểu bài với phương pháp đàm thoại thầy hỏi-trò trả lời, kiến thức do giáo viên truyền đạt, tiết học trầm lắng, chỉ một số em phát biểu xây dựng bài học cùng giáo viên, giờ đây với sự chuẩn bị như đã dặn dò, đa số học sinh tham gia các hoạt động học tập sôi nổi hơn, tiếp nhận thông tin bài học chủ động hơn, ghi nhớ bài nhanh hơn.

Giải pháp 2. Tổ chức hoạt động dạy học dưới dạng các trò chơi

Bên cạnh việc chuẩn bị đồ dùng dạy và học để phục vụ cho các hoạt động học tập đạt hiệu quả, thì trò chơi học tập cũng là một phương pháp dạy học nhằm tạo sự cuốn hút học sinh vào bài giảng và tiếp thu kiến thức không kém phần hiệu quả.

Vậy thế nào là trò chơi học tập ? Tổ chức trò chơi khi dạy học vào lúc nào ?

Trò chơi học tập  là trò chơi gắn với hoạt động học tập của học sinh. Để thay đổi hình thức học tập, không khí lớp học thoải mái, dễ chịu hơn, quá trình học tập trở thành một hình thức vui chơi hấp dẫn, học sinh thấy vui, nhanh nhẹn, cởi mở hơn, học sinh tiếp thu bài tự giác và tích cực, chủ động hơn. Qua nhiều năm giảng dạy, tôi thấy đa số học sinh rất thích được tham gia trò chơi học tập. Vì vậy, dựa trên kiến thức mỗi bài học, tôi suy nghĩ và xây dựng nên các trò chơi, đặt tên, đặt luật chơi; phải có tính thi đua, quy định về sự thưởng, « phạt »... và ấn định thời gian cùng với phương pháp để tiến hành trò chơi đó sao cho phù hợp, đồng thời cũng dự kiến một số tình huống có thể phát sinh trong quá trình tiến hành trò chơi,… Trong môn khoa học lớp 4 có rất nhiều tiết học cần sử dụng đến phương pháp trò chơi học tập. Thường có hai dạng kiến thức để thực hiện trò chơi : chơi để khám phá, hình thành kiến thức mới và chơi để củng cố, hệ thống hoá kiến thức đã học. Để phương pháp này đạt hiệu quả tôi đã thực hiện các bước sau :  

          Chẳng hạn:

Bài 1 - Con người cần gì để sống ? - Trang 4 - Tôi sẽ tiến hành trò chơi « Cuộc hành trình đến hành tinh khác » - Qua trò chơi này giúp học sinh củng cố những điều kiện cần để duy trì sự sống của con người.

* Cách tiến hành :

Bước 1. Tổ chức

- Tôi chia lớp thành các nhóm nhỏ.

- Phát cho mỗi nhóm 20 tấm phiếu hoặc HS tự vẽ, cắt hình trong họa báo để chơi.

Lưu ý : Nội dung 20 tấm phiếu gồm những thứ « cần có » để duy trì cuộc sống và những thứ các em, « muốn có ».

Bước 2. Hướng dẫn cách chơi và chơi

- Tôi yêu cầu mỗi nhóm chọn ra 10 thứ [được vẽ trong 20 phiếu] mà các em thấy cần mang theo tới hành tinh khác. Những phiếu còn lại nộp lại cho giáo viên.

- Tiếp tục, mỗi nhóm chọn 6 phiếu cần thiết nhất để mang theo [những phiếu loại ra lại nộp về giáo viên].

Bước 3. Thảo luận

- Các nhóm so sánh kết quả lựa chọn của nhóm mình với các nhóm khác và giải thích tại sao lại lựa chọn như vậy.

- Tôi sẽ làm trọng tài, quyết định thắng, thua và chốt kiến thức. 

- Tuyên dương đội thắng cuộc. Động viên, khích lệ đội về sau hãy cố gắng hơn ở lần sau...

Bài 7 - Tại sao phải ăn phối hợp nhiều loại thức ăn ? - Trang 16 - Trò chơi « Đi chợ » - Giúp học sinh biết lựa chọn các thức ăn cho từng bữa ăn  một cách phù hợp và có lợi cho sức khỏe.

Bước 1. Hướng dẫn cách chơi 

- Tôi cho các em chơi bán hàng. Một số em làm người bán, một số em làm người khách mua hàng.

Bước 2. Chơi như hướng dẫn

Bước 3.

- Từng HS tham gia chơi sẽ giới thiệu trước lớp những thức ăn, đồ uống mà mình đã lựa chọn cho từng bữa ăn.

- Dựa trên những hiểu biết về bữa ăn cân đối, lớp sẽ nhận xét sự lựa chọn của bạn nào phù hợp, có lợi cho sức khỏe.

- Đánh giá, tuyên dương HS hiểu bài, tham gia trò chơi tích cực.

- Động viên, khích lệ đội về sau hãy cố gắng hơn ở lần sau...

Bài 12 - Phòng một số bệnh do thiếu chất dinh dưỡng - Trang 26 - Trò chơi « Bác sĩ » - Củng cố kiến thức đã học trong bài; đồng thời giúp các em mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp.

Bước 1. Hướng dẫn cách chơi 

- Một bạn đóng vai bác sĩ, 1 bạn đóng vai bệnh nhân hoặc người nhà bệnh nhân. Các bạn khác theo dõi, nhận xét.

- Thay phiên nhau tham gia đóng vai khám chữa bệnh :

+ Bệnh nhân nói về triệu chứng [dấu hiệu] của bệnh.

+ Bác sĩ phải nói tên bệnh và cách phòng.  

Bước 2. Chơi theo nhóm – mỗi nhóm chơi theo từng cặp đôi.

Bước 3.

- Các nhóm cử đôi chơi tốt nhất lên trình bày trước lớp.

- Đánh giá, tuyên dương HS thể hiện được sự hiểu biết và nắm vững bài.

- Động viên, khích lệ những em chưa mạnh dạn, thiếu tự tin cùng tham gia trò chơi.

Bài 15 - Bạn cảm thấy thế nào khi bị bệnh ? - Trang 32 – Trò chơi « Mẹ ơi, con... sốt ! » – HS biết nói với cha mẹ hoặc người lớn khi trong người cảm thấy khó chịu, không bình thường. Động viên, khích lệ những em chưa mạnh dạng, thiếu tự tin trong giao tiếp cùng tham gia.

Bài 18, 19 - Ôn tập : Con người và sức khỏe - Trang 38.

Trò chơi « Ai nhanh, ai đúng ? » – Củng cố và hệ thống kiến thức về sự trao đổi chất của cơ thể người với môi trường; các chất dinh dưỡng có trong thức ăn và vai trò của chúng; cách phòng trành một số bệnh do thiếu hoặc thừa chất dinh dưỡng và lây bệnh qua đường tiêu hóa.

Trò chơi « Ai chọn thức ăn hợp lí  ? » – Các em áp dụng kiến thức đã học vào việc chọn thức hàng ngày. 

Bài 31. Không khí có những tính chất gì ? – trang 64.

Trò chơi « Thi thổi bóng » – Giúp HS phát hiện không khí không có hình dạng nhất định.

Bài 33, 34 - Ôn tập và kiểm tra cuối học kì I - Trang 68.

Hoạt động 1. Trò chơi « Ai nhanh, ai đúng ? »

* Mục tiêu : Giúp HS củng cố  và hệ thống các kiến thức về : tháp dinh dưỡng; một số tính chất của nước và không khí; thành phần chính của không khí; vòng tuần hoàn của nước trong tự nhiên. 

* Tiến hành :

Bước 1. Chia nhóm – Hướng dẫn cách chơi, luận chơi.

Bước 2. Phát hình vẽ «Tháp dinh dưỡng cân đối» chưa hoàn thiện cho các nhóm thi đua hoàn thành.

Bước 3. Các nhóm thi đua trình bày sản phẩm trước lớp.

Bước 4. Tôi chuẩn bị một số phiếu ghi các câu hỏi ở SGK/69 và soạn thêm một số câu hỏi khác tùy theo yêu cầu ôn tập cho HS. Các nhóm sẽ ngẫu nhiên bốc thăm trả lời câu hỏi.

Kết thúc : Nếu nhóm nào có nhiều điểm hơn sẽ thắng cuộc.

Hoạt động 2. Triển lãm tranh

* Mục tiêu : Giúp HS củng cố  và hệ thống các kiến thức về : Vai trò của nước và không khí trong sinh hoạt, lao động sản xuất và vui chơi giải trí.  Phát huy tính tích cực trong học tập.  Mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp trước tập thể.

* Tiến hành :

Bước 1. Chia nhóm – Hướng dẫn cách chơi, luận chơi.

Bước 2.

- Nhóm trưởng tổng hợp những tranh ảnh, tư liệu của nhóm để trình bày theo chủ đề.

- Các thành viên trong nhóm tập thuyết trình, giải thích về sản phẩm của nhóm.

-Thống nhất với ban giám khảo về tiêu chí đánh giá của các nhóm. [Mỗi nhóm cử 1 bạn tham gia làm ban giám khảo].

Bước 3. Các nhóm tham quan khu triển lãm của các nhóm bạn.

- Mỗi thành viên của nhóm phải chia nhau mỗi người một phần trình bày, ban giám khảo sẽ đưa ra câu hỏi.

- Đánh giá, nhận xét.

Đúng vậy, để dạy tốt môn khoa học, bên cạnh việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài, chuẩn bị đồ dùng học tập trực quan thì người giáo viên cần phải biết phối kết hợp các phương pháp dạy học như: Phương pháp quan sát; phương pháp thí nghiệm; phương pháp nhóm; trong đó phương pháp trò chơi học tập cũng góp một phần hiệu quả không nhỏ trong việc dạy học cho học sinh. Phương pháp này nhằm khuyến khích sự tò mò khoa học, thói quen đặt câu hỏi, tìm câu giải thích khi các em được tiếp cận với thực tế, qua đó các em dễ dàng ghi nhớ nội dung bài học. Trò chơi học tập không chỉ là một « công cụ » dạy học mà nó còn là con đường sáng tạo xuyên suốt quá trình học tập của học sinh. Nó tạo cảm giác thoải mái, tự tin, sự sáng tạo, nhanh trí, óc tư duy, tưởng tượng của học sinh. Khi bị khép vào luật chơi, các em dần có trật tự hơn, kỷ luật hơn. Thông qua trò chơi, học sinh được tập luyện, làm việc cá nhân, làm việc theo đơn vị tập thể trong sự phân công với tinh thần hợp tác, giao lưu.

    Giải pháp 3. Tổ chức cho học sinh thực hành-thí nghiệm  

Chúng ta đều biết, học sinh tiểu học cần phải được các thầy giáo, cô giáo trang bị kiến thức về kĩ năng sống, vốn hiểu biết về tự nhiên-xã hội thông qua các môn học. Thực hành-thí nghiệm là một hoạt động giúp học sinh chuyển từ tư duy cụ thể sang tư duy trừu tượng và ngược lại. Vì vậy việc thực hành-thí nghiệm giúp các em ứng dụng những điều đã học vào thực tế cuộc sống, giúp các em rèn luyện kĩ năng thực hành, những đức tính cần cù, chịu khó, đoàn kết và hợp tác. Bên cạnh đó, khi tự tay làm thí nghiệm, tận mắt nhìn thấy những gì mình « làm ra », các em sẽ tin tưởng hơn vào kiến thức mà mình đã học, tin vào khả năng thực sự của mình, hãnh diện với mọi người rằng mình « đã làm được » và mình « sẽ làm được »,... Trong quá trình làm  thí nghiệm, việc tạo cơ hội cho học sinh tham gia luyện tập kiến thức và phát triển kĩ năng giao tiếp là rất quan trọng.

Các tiết dạy thực hành-thí nghiệm chủ yếu dùng để dạy các bài về sự vật, hiện tượng, các quá trình diễn ra trong thế giới tự nhiên nhằm giúp học sinh  có hiểu biết về nguyên nhân các hiện tượng, tính quy luật của các hiện tượng, ... 

Để dạy học theo phương pháp thực hành-thí nghiệm, thông thường cần tuân theo các bước sau :

- Xác định mục đích của thí nghiệm.

- Vạch kế hoạch tiến hành thí nghiệm.

- Tiến hành thí nghiệm.

- Phân tích kết quả và kết luận.

*Ví dụ : Khi dạy “Bài 20 : Nước có những tính chất gì ?”

 Thí nghiệm 1:  Phân biệt nước với các chất lỏng khác.   

— Bước 1. Xác định mục đích của thí nghiệm.

  Học sinh làm thí nghiệm để phát hiện ra một số tính chất của nước như : màu sắc, mùi, vị.

— Bước 2. Vạch kế hoạch tiến hành thí nghiệm.

- Chia lớp thành các nhóm nhỏ.

+ Yêu cầu các nhóm đem cốc đựng nước và cốc đựng sữa đã chuẩn bị ra quan sát và làm theo yêu cầu đã ghi ở SGK/tr42.

 + GV có thể chuẩn bị thêm cho các nhóm nhiều cốc đựng chất lỏng hơn. Chẳng hạn : 1 cốc đựng nước, 1 cốc đựng nước muối, 1 cốc đựng nước có pha ít dấu bạc hà, 1 cốc đựng nước chè.

- Yêu cầu HS trao đổi ý 1  và 2  theo yêu cầu quan sát trong SGK.   

— Bước 3. Tiến hành thí nghiệm.

- Nhóm trưởng điều khiển quan sát và trả lời các câu hỏi.

- Thống nhất ý kiến ghi vào bảng nhóm.

— Bước 4. Phân tích kết quả và kết luận.

- Đại diện nhóm trình bày kết quả thí nghiệm.

- Các nhóm khác nhận xét, bổ sung.

- GV gọi một số HS nói về những tính chất của nước được phát hiện trong thí nghiệm này.

- Kết luận: nước trong suốt, không màu, không mùi, không vị. 

Lưu ý giáo dục: nếu không biết chắc một chất nào đó có độc hay không, tuyệt đối không được ngửi và nhất là không được nếm.

Thí nghiệm 2 : Phát hiện hình dạng của nước

— Bước 1. Xác định mục đích của thí nghiệm.

Học sinh biết dự đoán, nêu cách tiến hành và tiến hành làm thí nghiệm tìm hiểu về hình dạng của nước.  

— Bước 2. Vạch kế hoạch tiến hành thí nghiệm.

-Chia lớp thành các nhóm nhỏ thảo luận.

+Yêu cầu các nhóm đem chai, lọ có hình dạng khác nhau bằng thủy tinh hoặc nhựa để lên bàn.

+Yêu cầu quan sát 1 cái chai hoặc cốcàđặt chai hoặc cốc đó ở vị trí khác nhau [nằm ngang hoặc nằm dọc].

+Kết luận : ... chai, cốc có hình dạng nhất định.

-Tiến hành thí nghiệm.

+ Các nhóm thảo luận đưa ra dự đoán về hình dạng của nước.

— Bước 3. Tiến hành thí nghiệm.

- Tiến hành thí nghiệm để kiểm tra dự đoán thí nghiệm của nhóm mình.

- Ghi nhanh kết quả thí nghiệm lên bảng báo cáo của nhóm.

- Vài nhóm trình bày cách tiến hành thí nghiệm.

— Bước 4. Phân tích kết quả và kết luận.

- Thống nhất, đối chiếu dự đoán thí nghiệm với kết quả thí nghiệm.

- Rút ra kết luận về hình dạng của nước : nước không có hình dạng nhất định.

Hoặc một số ví dụ khác như : 

Bài 25 - Nước bị ô nhiễm – trang 52.  

* Thí nghiệm :   

— Bước 1. Xác định mục đích của thí nghiệm.

Học sinh phân biệt được đặc điểm chính của nước sạch và nước bị ô nhiễm.

                                                                                                                                                                                                  Bước 2. Vạch kế hoạch tiến hành thí nghiệm.

- Chia lớp thành các nhóm nhỏ.

- Nhóm trưởng báo cáo việc chuẩn bị các đồ dùng để làm thí nghiệm.

- Yêu cầu các nhóm thảo luận và đưa ra các tiêu chuẩn về nước sạch và nước bị ô nhiễm theo chủ quan của các em [HS không mở SGK].

- Thư kí tổng hợp ghi vào bảng nhóm.

Tiêu chuẩn đánh giá

Nước bị ô nhiễm

Nước sạch

1. Màu

...

...

2. Mùi

...

...

3. ...

...

...

Bước 3. Tiến hành thí nghiệm.

- Nhóm trưởng điều khiển các bạn tiến hành lọc nước.

- GV kiểm tra và hướng dẫn thêm cho các em trong quá trình tiến hành làm thí nghiệm.

- Thống nhất ý kiến ghi vào bảng nhóm.

— Bước 4. Phân tích kết quả và kết luận.

- Đại diện nhóm trình bày kết quả thí nghiệm.

- Các nhóm khác nhận xét, bổ sung.

- GV yêu cầu các nhóm mở SGK/tr 53 đối chiếu kết quả. Nếu nhóm nào ra kết quả khác, GV yêu cầu các em tìm nguyên nhân, xem tiến trình làm việc của nhóm bị nhầm lẫn ở đâu...

- GV gọi một số HS nói về những đặc điểm của nước sạch và nước không sạch được phát hiện trong thí nghiệm này.

- Kết luận : [Như mục Bạn cần biết SGK/tr 53]

Bài 30 - Làm thế nào để biết có không khí ? – trang 62.

Các em sẽ làm thí nghiệm để chứng minh không khí có ở khắp nơi cả trong  những chỗ trống của mọi vật.

Bài 31 - Không khí có những tính chất gì ? – trang 64.

*Mục tiêu :

-HS làm thí nghiệm để biết không khí có thể bị nén lại hoặc giãn ra.

-Nêu được ví dụ về việc ứng dụng một số tính chất của không khí trong đời sống.

*Cách tiến hành :

-Chia nhóm.

-Yêu cầu HS đọc mục Quan sát trang 65 SGK.

-Mô tả hiện tượng xảy ra ở hình 2b, 2c và sử dụng các từ giãn ra, nén lại để nói về tính chất của không khí qua thí nghiệm này.

-GV hỏi-lớp trả lời tiếp 2 câu hỏi SGK.

-Thực hành, thí nghiệm : bơm hơi quả bóng, bơm hơi bánh xe đạp [nếu có].

-Đại diện các nhóm trình bày kết quả thực hành của nhóm. Các nhóm khác nhận xét, bổ sung.

-Kết luận: …không khí có thể bị nén lại hoặc giãn ra. 

Một số bài dạy khác như : 

Bài 32 - Không khí gồm những thành phần nào ? – trang 66. [HS làm thí nghiệm xác định hai thành phần chính của không khí là khí ô-xy duy trì sự cháy và khí ni-tơ không duy trì sự cháy.]

Bài 35 - Không khí cần cho sự cháy – trang 70. [Các em sẽ dự đoán và làm thí nghiệm chứng minh càng có nhiều không khí thì càng có nhiều ô-xy để duy trì sự cháy được lâu hơn; muốn sự cháy diễn ra lâu hơn  thì không khí phải được lưu thông.] 

Bài 41 - Âm thanh – trang 82. [Làm thí nghiệm chứng minh về sự liên hệ giữa rung động và sự phát ra âm thanh.] 

Bài 45 - Ánh sáng – trang 90. [Các em sẽ cùng làm thí nghiệm chứng tỏ ánh sáng truyền theo đường thẳng, chứng tỏ mắt chỉ nhìn thấy một vật khi có ánh sáng từ vật đó đi tới mắt và phân biệt được vật tự phát sáng và vật được chiếu sáng.]

Bài 46 - Bóng tối – trang 92. [HS dự đoán và làm thí nghiệm để biết được vị trí, hình dạng của bóng tối, bóng tối xuất hiện phía sau vật cản sáng khi được chiếu sáng, …].   

Bài 50 - Nóng, lạnh và nhiệt độ - trang 100. [Biết đo nhiệt độ cơ thể người; nhiệt độ của hơi nước đang sôi; nhiệt độ của nước đá đang tan.]

Bài 52 - Vật dẫn nhiệt và vật cách nhiệt – trang 104.  [Sau thí nghiệm các em sẽ lí giải việc sử dụng các chất dẫn nhiệt, các chất cách nhiệt và sử dụng hợp lí  trong những trường hợp đơn giản, gần gũi. Biết được những vật dẫn nhiệt tốt và vật dẫn nhiệt kém.]

Trước đây, từ những nhận thức của các em học sinh không đồng đều nên tình trạng một số học sinh khó khăn trong học tập thì quá trình đàm thoại để lĩnh hội kiến thức làm cho các em không đủ tự tin để có thể tham gia trả lời câu hỏi, thậm chí có em còn nản lòng, chán học.

Bằng hình thức tổ chức này, tôi thấy các em đã mạnh dạn hơn, chủ động hơn khi trình bày những gì mình quan sát được từ cuộc sống xung quanh. Tôi có thể dễ dàng kiểm tra được việc nắm bắt bài học của các em, sự tự tin, mạng dạn trong giao tiếp đến đâu, để từ đó tôi có sự điều chỉnh phương pháp cũng như hình thức tổ chức dạy học của mình cho phù hợp hơn trong những giờ dạy học môn Khoa học.

Tóm lại : Xuất phát từ những yêu cầu đổi mới, từ hoàn cảnh cụ thể của xã hội, của giáo dục nhà trường, của gia đình, vị trí của giáo viên trong công tác giáo dục ở trường học có một ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Vấn đề luôn đặt ra là giáo viên phải thực hiện tốt công tác giáo dục và cần xác định một cơ chế hoạt động về quyền hạn, trách nhiệm cho phù hợp với thực tế, phải có năng lực của một nhà sư phạm. Vì vậy buộc giáo viên phải tự hoàn thiện mình trước khi hoàn thiện cho học sinh.

Từ một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh lớp 4 học môn Khoa học mà tôi đã thực hiện trên, tôi thấy ý thức, thái độ học của các em sôi nổi, hào hứng, tích cực và mạnh dạn hơn đầu năm học rất nhiều. Hình thành được cho các em thói quen học tập, tự học và tự điều chỉnh phương pháp học của mình, biết xây dựng nề nếp hoạt động nhóm, thi đua chuẩn bị bài và tự giác phát biểu xây dựng bài rất chu đáo.  

PHẦN III: KẾT LUẬN

  1. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG

     Qua nghiên cứu và thực hiện đề tài Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh lớp 4 học môn Khoa học, tôi rút ra một số kinh nghiệm từ thực tiễn như sau:    

- Cần phải hướng dẫn kĩ cho học sinh việc chuẩn bị bài ở nhà và đồ dùng học tập thật chu đáo trước khi đến lớp. Giáo viên phải sưu tầm hình ảnh, tư liệu về tự nhiên-xã hội để làm cơ sở so sánh, chứng minh áp dụng cho từng bài giảng. Nghiên cứu kĩ mục tiêu bài dạy để có đồ dùng dạy học đúng yêu cầu, đúng trọng tâm.

- Tổ chức dạy học dưới dạng các trò chơi học tập để thay đổi hình thức dạy học truyền thống thầy hỏi-trò trả lời khi kiểm tra bài cũ, truyền thụ kiến thức mới hay củng cố bài. Thiết kế bài dạy phải chú ý đến đối tượng học sinh, phù hợp với từng phương pháp dạy học, lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho các em trong một số tình huống thường gặp.

- Phải cho học sinh thực hành, thí nghiệm, thảo luận nhóm, để tự tìm ra kiến thức trước khi giáo viên diễn giải, minh chứng. Phải phát huy tính tích cực học tập của học sinh [không gò ép, áp đặt] cần gợi ý, động viên để các em tự tin vào khả năng suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo của mình. Sử dụng kĩ năng sống vốn có của mình để giải quyết một số sự cố có thể xảy ra trong quả trình thực hành-thí nghiệm.

- Giáo viên phải yêu nghề, yêu quý học sinh, cải tiến phương pháp và nhiệt tình giảng dạy. Luôn động viên, khuyến khích các em học tập, khen chê rõ ràng, không kì thị học sinh. Chú trọng đến đối tượng học sinh khó khăn. Bồi dưỡng nâng cao cho học sinh năng khiếu.  Phải tạo được không khí học tập vui vẻ, nhẹ nhàng, hấp dẫn gây hứng thú học tập cho các em. Thường xuyên kiểm tra đánh giá cho các em bằng nhận xét.

- Đối với tổ chuyên môn: Thường xuyên tổ chức các chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học, thảo luận sâu sắc cách viết và làm sáng kiến kinh nghiệm.

-  Đối với Phòng Giáo dục và đào tạo: Hàng năm, Phòng nên tổ chức nhiều chuyên đề cấp Quận, đặc biệt là các chuyên đề liên quan đến các dạng bài Khoa học điển hình của lớp 4,5. Ngoài ra cung cấp thêm các tài liệu tham khảo cho giảng dạy môn Khoa học trong các nhà trường.

     Khoa học là một môn học không có công thức, không có đáp số cụ thể giống như học Toán, học Tiếng Việt mà nó là môn học khá trừu tượng. Tuy nhiên lại rất gần gũi và rất cần thiết trong cuộc sống. 

     Khoa học là một môn học không có công thức, không có đáp số cụ thể giống như học Toán, học Tiếng Việt mà nó là môn học khá trừu tượng. Tuy nhiên lại rất gần gũi và rất cần thiết trong cuộc sống. Bên cạnh đó, xuất phát từ những yêu cầu đổi mới, từ hoàn cảnh cụ thể của xã hội, của giáo dục nhà trường, của gia đình, vị trí của giáo viên trong công tác giáo dục ở trường học có một ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Vấn đề luôn đặt ra là giáo viên phải thực hiện tốt công tác giáo dục và cần xác định một cơ chế hoạt động về quyền hạn, trách nhiệm cho phù hợp với thực tế, phải có năng lực của một nhà sư phạm. Vì vậy buộc giáo viên phải tự hoàn thiện mình trước khi hoàn thiện cho học sinh.

Quận Hoàng Mai

Video liên quan

Chủ Đề