Về đẹp văn chương trong cuộc sống

Đặc điểm và vai trò của nhân tố độc giả - trong hoạt động giao tiếp văn học

Mỗi sáng tác nghệ thuật đều là một phát hiện sáng tạo độc đáo của người nghệ sĩ, họ gửi vào đó những cảm nhận, trăn trở và thông điệp về cuộc đời. Văn học cũng là một đứa con tinh thần của nhà văn song phải cùng với bạn đọc thì các từ, ngữ, câu, chữ chết cứng mới thực sự được cựa, quậy, có linh hồn và đi vào cuộc sống. Nhà thơ Mosac từng quan niệm: “Tác phẩm thực ra chỉ được tạo thành bởi những kí hiệu câm lặng, những ngôn ngữ chết, cho nên bản thân nó chưa có giá trị gì, nếu có cũng chỉ là đôi chút. Cái quan trọng là vai trò của người đọc. Chính bạn đọc sẽ tạo nên giá trị cho tác phẩm…”; Ông cũng khẳng định: “không có bạn đọc thì không chỉ có sách của chúng ta mà cả những tác phẩm của Hôme, Đăngtơ, Puskin, Đôxtôiepxki… tất cả chỉ là đống giấy chết”. Bởi vậy nhân tố độc giả có những đặc điểm riêng và có vai trò đặc biệt trong đời sống văn học.

          Văn học có xuất phát điểm là ngôn từ nhưng là nghệ thuật ngôn từ. Theo giáo sư Bùi Minh Toán: “Giao tiếp bằng ngôn ngữ nghệ thuật thông qua tác phẩm văn học chỉ là một trong những hình thức giao tiếp độc đáo mà thôi”. Như vậy giữa văn bản là sản phẩm của hoạt động giao tiếp và văn bản văn học là kết quả của hoạt động văn học có những điểm tương đồng và khác biệt.

Giống như hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, hoạt động giao tiếp văn học cũng nhằm trao đổi thông tin của con người trong xã hội được tiến hành chủ yếu bằng phương tiện ngôn ngữ và nhằm thực hiện những mục đích về nhận thức, về tình cảm, về hành động…. Mỗi hoạt động giao tiếp văn học đều gồm hai quá trình là tạo lập và lĩnh hội, tính từ khi tác giả bắt đầu sáng tạo văn bản văn học rồi lưu hành và đến được với độc giả để độc giả lĩnh hội biến hệ thống câu chữ của văn bản ấy thành tác phẩm văn học, đó là sự hoàn chỉnh trên cơ sở liên kết nội dung và hình thức từ phương tiện ngôn ngữ. Hoạt động giao tiếp văn học cũng có đầy đủ các nhân tố tham gia là nhân vật, ngữ cảnh, nội dung, mục đích, phương tiện và cách thức giao tiếp. Bên cạnh chức năng thông tin thì hoạt động văn học cũng đảm bảo chức năng văn học là nhận thức, giáo dục và thẩm mĩ. Như vậy hoạt động văn học chính là hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ song các nhân tố của hoạt động văn học có những nét đặc trưng riêng so với hoạt động giao tiếp thông thường trong đó phải kể đến nhân tố độc giả tức nhân vật giao tiếp.

Trước hết ta cùng xem xét đặc điểm của yếu tố độc giả. Khác với hoạt động giao tiếp thông thường khi người nghe hoặc người đọc có thể xác định được cụ thể về số lượng, giới tính, lứa tuổi, dân tộc… Ta có thể thấy điều đó ngay trong thực tế hàng ngày. Còn độc giả trong hoạt động văn học có thể là một người cũng có thể là một số lượng không giới hạn, họ có thể thuộc về các thế hệ khác nhau, thuộc về những cộng đồng dân tộc khác nhau. Với Dế mèn phiêu lưu kí của nhà văn Tô Hoài thì người ta khó thống kê được có bao nhiêu độc giả khi mà cuốn sách đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng trên thế giới, ngay tại việt Nam cũng rất nhiều nhà xuất bản ấn hành nếu tính theo nhà xuất bản Kim Đồng thì số lần tái bản tính đến nay cũng đã là trên 10 lần.

Chính bởi lượng độc giả là hết sức đa dạng như trên mà ta cần chú ý đến tính chất cá thể hóa, tính chủ động, tích cực của người tiếp nhận. Ở đây năng lực, thị hiếu, tính khuynh hướng trong tư tưởng, tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ, sở thích cá nhân đóng vai trò rất quan trọng; tùy theo lứa tuổi già hay trẻ, trình độ học vấn cao hay thấp, kinh nghiệm sống nhiều hay ít mà có kết quả tiếp nhận cụ thể, riêng biệt cho mỗi người. Chính sự chủ động, tích cực của bạn đọc đã làm tăng thêm sức sống của tác phẩm.

Ngoài ra cũng phải kể đến tính đa dạng, không thống nhất trong tiếp nhận của bạn đọc. Đúng vậy cùng một tác phẩm nhưng sự cảm nhận và đánh giá của công chúng có thể rất khác nhau, thậm chí là đối nghịch. Đơn cử như Truyện Kiều – tác phẩm kinh điển của văn học Việt Nam song lịch sử tiếp nhận là hết sức phức tạp, có người thấy ở Kiều là tấm gương hiếu nghĩa, có người coi nàng là hiện thân cho thân phận đau khổ của phận đàn bà trong xã hội phong kiến nhưng lại cũng có người nhìn nhận Kiều như một kĩ nữ thậm chí là tà dâm…. Hay gần đây Đàn ghita của Lorca là một bài thơ đầy màu sắc siêu thực, tượng trưng của tác giả Thanh Thảo, chỉ một khổ thơ ngắn nhưng bao cách hiểu khác nhau:

                                      Không ai chôn cất tiếng đàn

                                       Tiếng đàn như cỏ mọc hoang

                                      Long lanh trong đáy giếng

Phải công nhận rằng đây là khổ thơ đầy ám ảnh với bao nhiêu sức gợi. Ý thơ dù đa nghĩa song vẫn có cơ sở để hiểu riêng câu thơ thứ ba:  Giọt nước mắt vầng trăng. Hai hình ảnh thơ liền kề, không có quan hệ từ nào, hiểu mối quan hệ giữa hai hình ảnh ấy như thế nào đây? Nếu giọt nước mắt và vầng trăng sẽ tạo nên mối quan hệ đẳng lập, nếu đặt giọt nước mắt của vầng trăng ta lại có quan hệ sở hữu, còn xét giọt nước mắt như vầng trăng ta sẽ có quan hệ so sánh, giả sử giọt nước mắt là vầng trăng đó lại là quan hệ đồng nhất, cũng có thể giọt nước mắt với vầng trăng đó lại là quan hệ song song…. Và tất nhiên mỗi cách đặt quan hệ như trên sẽ đem lại những cách hiểu khác nhau. Sự khác biệt trong cảm nhận, đánh giá hẳn có xuất phát từ tác phẩm khi hình tượng nghệ thuật phức tạp, ngôn từ đa nghĩa và vì thế sự tiếp nhận của bạn đọc càng phong phú, phức tạp. Song dù sao người đọc cũng cần cố gắng để đạt tới cách hiểu đúng từ đấy lĩnh hội được các giá trị đích thực chân – thiện – mĩ của tác phẩm văn học.

Tiếp theo là sự ghi nhận vai trò to lớn của yếu tố độc giả trong hoạt động văn học. Dù chỉ mang tính tiếp nhận thì độc giả cũng có vị thế hết sức chủ động, tích cực, sáng tạo, hướng đến cái hay, cái đẹp, cái đúng chứ không hề thụ động như một số hoạt động giao tiếp thông thường. Vai trò ấy được biểu hiện cụ thể qua một số phương diện sau:

Thứ nhất, trong hoạt động văn học, không đợi đến khi tác phẩm chào đời mới có sự xuất hiện của độc giả. Theo giáo sư Đỗ Hữu Châu lược đồ giao tiếp trong hoạt động giao tiếp văn học nhấn mạnh vai trò của người nghe, người tiếp nhận đối với thông điệp mà người nói phát ra, là sự kiện văn học phải đầy đủ cả tác giả, tác phẩm và độc giả. Theo ông : “Văn học là tác giả - tác phẩm – độc giả, không phải chỉ là tác giả - tác phẩm. Độc giả không chỉ xuất hiện sau khi tác phẩm đã ra đời mà có mặt ngay trong quá trình sáng tác”. Nhìn lại các tác giả lớn trong lịch sử văn học chúng ta không khó để thấy vai trò quan trọng của yếu tố độc giả. Trong quan điểm sáng tác của  tác gia Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh ta đã biết Bác rất coi trọng đối tượng tiếp nhận, mục đích sáng tác và lấy đó làm xuất phát điểm cho sáng tác văn học, sau đó Bác mới chọn lựa và quyết định nội dung, hình thức sáng tác. Trước khi đặt bút, Bác luôn tự tìm câu trả lời cho các câu hỏi: Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết cái gì? Viết như thế nào? Chẳng thế mà trong Tuyên ngôn độc lập ta thấy không đơn thuần Bác hướng bản tuyên ngôn tới nhân dân Việt Nam, nhân dân thế giới mà còn hướng tới những thế lực đen tối đang âm mưu xâm lược lại Việt Nam. Đây là cơ sở để Bác triển khai mục đích sáng tác thông qua nội dung bản tuyên ngôn là cơ sở pháp lí, cơ sở thực tiễn và chọn hình thức là một áng văn chính luận. Qua ví dụ trên ta thấy tư tưởng I. Lalich chỉ dẫn đã trở nên dễ hiểu: “Cái bóng của độc giả đang cúi xuống sau lưng nhà văn khi nhà văn ngồi trước tờ giấy trắng. Nó có mặt ngay cả khi nhà văn không muốn thừa nhận sự có mặt đó. Chính độc giả đã ghi lên trên tờ giấy trắng cái dấu hiệu không thể tấy xóa được của mình”. Ta có thể thấy sự chi phối của độc giả mang tính hai mặt cả về nội dung và hình thức, nhà văn cần lựa chọn nội dung phù hợp và đáp ứng được thị hiếu của độc giả, lựa chọn hình thức nghệ thuật như ngôn ngữ, thể loại, kết cấu…Hồ Chí Minh luôn xác định với đối tượng thuộc quảng đại quần chúng thì có cách viết dễ hiểu về nội dung, dễ tiếp nhận về hình thức còn với tầng lớp trí thức, Bác lại lựa chọn cách viết nâng cao với ngôn từ hàm súc, giàu sức gợi.

Thứ hai, khi tác phẩm đến với độc giả thì chính độc giả góp phần hoàn thiện tác phẩm vì chính họ đã biến văn bản thành tác phẩm. Theo cách nói của giáo sư Nguyễn Lai thì văn bản cũng là “sản phẩm” được làm ra, khi chưa qua tay người tiêu dùng mới là câu chữ và ở dạng tiềm năng. Vậy, để tín hiệu ngôn ngữ trong văn bản trở thành tín hiệu thẩm mĩ thì nhất định cần có vai trò của độc giả. Độc giả hoàn thiện quá trình sáng tác: “Tác phẩm văn học giống như một con quay kì lạ, chỉ có thể xuất hiện trong vận động. Muốn làm cho nó xuất hiện cần phải có một hoạt động cụ thể được gọi là sự đọc. Và tác phẩm văn học có thể kéo dài chừng nào khi sự đọc còn có thể tiếp tục. Ngoài sự đọc ra nó chỉ còn là những vệt đen trên giấy trắng”. Quan niệm của J. Paul Sartre đã khẳng định vai trò quan trọng của độc giả.

Quả đúng vậy, độc giả biến văn bản thành tác phẩm, hiện thực hóa những câu chữ thành hình tượng trong tác phẩm. Bởi vậy cùng một văn bản nghệ thuật tùy thuộc vào độc giả của những thế hệ khác nhau với vốn văn hóa khác nhau tác phẩm văn học có thể tỏa sáng với những sắc thái khác nhau. Đó chính là hoạt động đồng sáng tạo của độc giả bởi họ chính là người phát hiện, lĩnh hội hệ thống cảm xúc, ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm văn học qua hệ thống ngôn ngữ và nhờ thế họ có những phát hiện mới về tác phẩm trên tầm cao của kiến thức, của tình yêu dành cho cái đẹp, sự say mê và rung cảm mãnh liệt đối với văn chương.

Có nhiều cách để độc giả tham gia đồng sáng tạo, có khi là họ chuyển được mã ngôn ngữ sang mã tín hiệu thẩm mĩ, có khi họ có những cách hiểu sâu xa, mở rộng hơn từ tính đa nghĩa của ngôn từ nghệ thuật, có khi là họ góp ý, phê bình, đánh giá tác phẩm để từ đấy tác giả có thể sửa chữa, hoàn thiện, nâng cao cách viết, cách sắp đặt kết cấu… Dù theo cách nào cũng là vai trò phản hồi tích cực của độc giả. Lịch sử tìm hiểu văn học ghi nhận nhiều sự tiếp nhận khác hẳn hoặc vượt xa ý đồ sáng tác của nhà văn. Chẳng hạn chữ “buồng” trong câu thơ Đầy buồng lạ màu thâu đêm trong bài Cây chuối của Nguyễn Trãi có nhiều cách hiểu: đa số cho đó là buồng chuối, buồng chuối chín thơm ngào ngạt thâu đêm; một số cho đó là buồng văn của chính thi nhân tràn ngập hương sắc quyến rũ của đêm xuân; còn với Xuân Diệu lại cho đó là buồng the của người con gái. Đa dạng những cách hiểu như vậy mà có những cuộc tranh luận sối nổi.

Thứ ba độc giả trong hoạt động văn học thuộc nhiều thời đại tức là chịu sự chi phối của yếu tố thời gian văn hóa, không gian văn hóa khác nhau. Mỗi độc giả mang kiến thức bách khoa thời đại mình khi lĩnh hội tác phẩm, góp phần bổ sung làm tác phẩm tỏa sáng theo những điểm nhìn, góc độ khác nhau. Có thể kể đến một số trường hợp tiếp nhận tiêu biểu sau: Trong truyện ngắn Anh Hai Đen lấy vợ của Triệu Thụ Lý, nhà văn miêu tả nhân vật Tam Tiên Cô là người đàn bà không còn trẻ nhưng đồng bóng, lẳng lơ, ăn mặc lòe loẹt, lười nhác bị cán bộ khu lên án. Bạn đọc Châu Á hoàn toàn đồng tình nhưng sinh viên Âu, Mỹ lại không nghĩ cô là nhân vật phản diện như vậy mà lại thấy ở đó một người đàn bà khao khát tình cảm rất đáng thương. Việc đồng bóng chẳng qua là phản ứng biến dạng của tâm lí bị ức chế. Người ta thấy tác giả chế giễu cô là không công bằng, thậm chí còn là sự xúc phạm thiếu văn hóa và dã man. Đó quả là sự tiếp nhận hoàn toàn bất ngờ nhưng có cơ sở. Bạn đọc với sự tiếp nhận khác biệt là bởi sự chi phối của hai truyền thống văn hóa, hai cách đánh giá cuộc sống cá nhân con người. Hay trường hợp nghệ sĩ Liên Xô Tônkunôva kể lại là bà đã kể cho con nghe câu chuyện cổ tích Nga Con cá vàng và bà kết luận: Đó, thấy chưa, tham thì thâm. Vậy mà đứa con hình như đã đi xa hơn cả câu chuyện cổ tích khi cho rằng: Giá ông lão xin con cá một người vợ tốt hơn, chắc chắn số phận sẽ tốt hơn. Quả là táo bạo, độc đáo và có lí của tư duy thế hệ mới!

Với những đặc điểm và vai trò của yếu tố độc giả trong hoạt động văn học như trên mà ta hiểu để tiếp nhận văn học thực sự có hiệu quả thì người đọc phải không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết của mình, tích lũy kinh nghiệm tiếp nhận, biết trân trọng sản phẩm sáng tạo của một ý thức khác, lắng nghe một tiếng nói khác, làm quen với một giá trị văn hóa khác, tìm cách để đọc, hiểu tác phẩm một cách khách quan toàn vẹn từ đó làm phong phú thêm thế giới tâm hồn của mình. Hiểu rõ điều này, người giáo viên dạy Ngữ văn có thêm cơ sở để khơi gợi khả năng lĩnh hội của học sinh ở các tiết giảng dạy văn bản qua tín hiệu ngôn ngữ, dần dần hình thành kĩ năng tiếp nhận văn học và bồi đắp phong phú thế giới quan, nhân sinh quan cho thế hệ trẻ. Làm được như thế hẳn phát huy được nhiều hơn trí thông minh, những suy nghĩ táo bạo, tính tích cực và tư duy sáng tạo trong học tập của học sinh để giờ giảng văn chỉ còn lại những hứng thú, say mê và rung cảm thẩm mĩ.

Video liên quan

Chủ Đề