Theo phép biện chứng duy vật nội dung của sự vật là gì

Phép biện chứng duy vật là gì? “Phép biện chứng duy vật” là một nội dung quan trọng trong chương trình học phần Triết học Mác-Lênin được giảng dạy ở trình độ đại học. Vậy phép biện chứng duy vật là gì? Biện chứng là gì? Phép biện chứng là gì và các hình thức cơ bản của phép biện chứng? Hãy cùng tìm hiểu các vấn đề có liên quan đến phép biện chứng duy vật bằng cách tham khảo bài viết sau đây nhé.

Phép biện chứng duy vật là gì

Theo nghĩa xưa thì biện chứng là nghệ thuật tranh luận nhằm tìm ra chân lý bằng cách phát hiện các mâu thuẫn trong lập luận của đối phương.

Theo Triết học Mác, khái niệm biện chứng dùng để chỉ những mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa và vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

Phép biện chứng là gì? Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới thành hệ thống những nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn.

Các hình thức cơ bản của phép biện chứng bao gồm:

  • Phép biện chứng sơ khai thời cổ đại. Phép biện chứng này có đặc trưng cơ bản là nhận thức đúng về tính biện chứng của thế giới nhưng bằng trực kiến thiên tài, bằng trực quan chất phác, ngây thơ còn thiếu dự chứng minh bởi các thành tựu khoa học tự nhiên.
  • Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức.
  • Phép biện chứng hiện đại – Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Vậy phép biện chứng duy vật là gì? Phép biện chứng là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy.

Hai đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy vật.

  • Đây là phép biện chứng được xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học.
  • Đây là phép biện chứng có sự thống nhất giữa nội dung thế giới quan [duy vật biện chứng] và phương pháp luận [biện chứng duy vật] do đó nó không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.

Phép biện chứng duy vật giữ vai trò là một nội dung đặc biệt quan trọng trong thế giới quan và phƣơng pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tạo nên tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời nó cũng là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong các lĩnh vực khoa học.

Mối liên hệ là khái niệm dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.

Mối liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng.

Tính chất của các mối liên hệ:

  • Tính khách quan: tính chất độc lập với ý thức của con người như cầu vồng, mưa,…
  • Tính phổ biến: không có bất cứ sự vật, hiện tượng nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với những sự vật, hiện tượng khác. Đồng thời, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng tồn tại với tư cách là một hệ thống, hơn nữa là một hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác.
  • Tính đa dạng, phong phú: có nhiều mối liên hệ cụ thể khác nhau với những vai trò, vị trí khác nhau trong thế giới vật chất.

Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.

Tính chất của sự phát triển:

  • Tính khách quan: sự phát triển là tất yếu, khách quan.
  • Tính phổ biến, sự phát triển diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy.
  • Tính đa dạng, phong phú phát triển là khuynh hướng chung, nhưng từng sự vật, hiện tượng quá trình phát triển diễn ra không giống nhau.
  • Tính kế thừa: sự vật mới ra đời bao giờ cũng mang trong nó những yếu tố của sự vật cũ.
  • Ngày nay, thuật ngữ biện chứng được dùng để chỉ những mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa và vận động phát triền theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
  • Phép biện chứng chất phác cổ đại:
  • Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức
  • Phép biện chứng duy vật do Mác và Ăng ghen sáng lập.
  • Ăng ghen định nghĩa khái quát về pháp biệ chứng duy vật rằng: “ Phép biện chứng là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.
  • Bên cạnh đó, các nhà triết học nêu định nghĩa về phép biện chứng duy vật dưới nhiều khía cạnh khác nhau.
  • Xuất phát từ các ưu điểm tiến bộ của mình, phép biện chứng duy vật trở thành một nội dung đặc biệt quan trọng trong thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác – Lê nin, đồng thời nó cũng là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng rạo trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học.

Trên đây là một số thông tin liên quan đến phép biện chứng duy vật là gì. Hy vọng đây là những thông tin bổ ích đối với bạn. Nếu bạn cần hỗ trợ tư vấn pháp lý hoặc sử dụng các dịch vụ pháp lý khác từ Công ty Luật ACC, hãy đừng ngần ngại mà liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ nhanh chóng. ACC cam kết sẽ giúp bạn có trải nghiệm tốt nhất về các dịch vụ mà mình cung cấp đến khách hàng. Chúng tôi luôn đồng hành pháp lý cùng bạn.

  • Email:
  • Hotline: 1900 3330
  • Zalo: 084 696 7979
✅ Định nghĩa: ⭕ phép biện chứng duy vật
✅ Cập nhật: ⭐ 2022
✅ Zalo: ⭕ 0846967979
✅ Hỗ trợ: ⭐ Toàn quốc
✅ Hotline: ⭕ 1900.3330

Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật là hai nguyên lý cơ bản và đóng vai trò cốt lõi trong phép duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin khi xem xét, kiến giải sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống những nguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh hiện thực khách quan.

Ph.Ăng-ghen, người đã kiến giải các nguyên lý của phép biện chứng duy vật

Trong hệ thống đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất. Hai nguyên lý cơ bản gồm:

  • Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật, hiện tượng khách quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới. Nguyên lý này biểu hiện thông qua 06 cặp phạm trù cơ bản.
  • Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong đó khi xem xét sự vật, hiện tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận động và phát triển [vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật]. Nguyên lý này biểu hiện thông qua ba quy luật cơ bản

Ph.Ăng-ghen định nghĩa:

Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy
— Ăng-ghen[1]

và:

Phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng vào tư duy chủ yếu là trong mối liên hệ qua lại giữa chúng, trong sự móc xích của chúng, trong sự vận động của chúng, trong sự phát sinh và tiêu vong của chúng[2]

Mục lục

  • 1 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
    • 1.1 Cơ sở khoa học
    • 1.2 Tính chất
    • 1.3 Biểu hiện
  • 2 Nguyên lý về sự phát triển
  • 3 Tham khảo
  • 4 Chú thích

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biếnSửa đổi

Theo chủ nghĩa Mác -Lênin thì các sự vật hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất tính quy luật của sự vật, hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động qua lại giữa các mặt của bản thân chúng hay sự tác động của chúng đối với sự vật, hiện tượng khác. Đồng thời cũng qua đó phê phán cách xem xét của các nhà siêu hình học.

Đối với những nhà siêu hình học thì những sự vật và phản ánh của chúng vào trong tư duy, tức là những khái niệm đều là những đối tượng nghiên cứu riêng biệt, cố định, cứng đờ vĩnh viễn, phải xem xét từng cái một, cái này sau cái kia, cái này độc lập với cái kia
— Ăng-ghen[3]
Quan điểm siêu hình chỉ thấy những sự vật cá biệt mà không thấy mối liên hệ giữa những sự vật ấy, chỉ thấy sự tồn tại của sự vật mà không thấy sự hình hành và tiêu vong của sự vật, chỉ thấy trạng thái tĩnh của sự vật và không thấy trạng thái động của sự vật, chỉ thấy cây mà không thấy rừng
— Ăng-ghen[4]

Cơ sở khoa họcSửa đổi

Nguyên lý này được dựa trên một khẳng định trước đó của triết học Mác-Lênin là khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất- thế giới vật chất. Engels đã nhấn mạnh điều này

Tính thống nhất của thế giới là ở tính vật chất của nó, và tính vật chất này được chứng minh không phải bằng ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật, mà bằng sự phát triển lâu dài và khó khăn của Triết học và khoa học tự nhiên
— Ăng-ghen[5]

Theo Hồ Chí Minh thì: Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin.[6]

Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập tách rời nhau mà tồn tại trong sự tác động qua lại chuyển hoá lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định sự tác động qua lại sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.

Liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới

Tính chấtSửa đổi

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ có ba tính chất cơ bản: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.

  • Tính khách quan của mối liên hệ biểu hiện: các mối liên hệ là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
  • Tính phổ biến của mối liên hệ biểu hiện: bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào, ở bất kỳ không gian nào và ở bất kỳ thời gian nào cũng có mối liên hệ với những sự vật, hiện tượng khác. Ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ một thành phần nào, một yếu tố nào cũng có mối liên hệ với những thành phần, những yếu tố khác.
  • Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ biểu hiện: sự vật khác nhau, hiện tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối liên hệ biểu hiện khác nhau. Có thể chia các mối liên hệ thành nhiều loại: mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu, v.v.. Các mối liên hệ này có vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng.

Để khái quát nên tính chất biến hóa của sự vật, hiện tượng, Ăng-ghen đã viết rằng:

Tư duy của nhà siêu hình chỉ dựa trên những phản đề tuyệt đối không thể dung nhau được, họ nói có là có, không là không. Đối với họ, một sự vật hoặc tồn tại hoặc không tồn tại, một hiện tượng không thể vừa là chính nó lại là vừa cái khác, cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối bài trừ nhau…. Ngược lại tư duy biện chứng là một tư duy mềm dẻo linh hoạt, không còn biết đến những đường ranh giới tuyệt đối nghiêm ngặt, đến những cái "hoặc là"…. "hoặc là"… "vô điều kiện" nữa [kiểu như: "hoặc là có, hoặc là không", hoặc tồn tại, hoặc không tồn tại"]. Tư duy biện chứng thừa nhận trong những trường hợp cần thiết bên cạnh cái "hoặc là"… hoặc là" còn có cả cái "vừa là…. Vừa là" nữa. Chẳng hạn, theo quan điểm biện chứng, một vật hữu hình trong mỗi lúc vừa là nó, vừa không phải là nó, một cái tên đang bay trong mỗi lúc vừa ở vị trí A lại vừa không ở vị trí A, cái khẳng định và cái phủ định vừa loại trừ nhau vừa không thể lìa nhau được[7][8]

Theo Lênin: Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ và "quan hệ gián tiếp" của sự vật đó[9] và ông cũng cho rằng: Phép biện chứng đòi hỏi người ta phải chú ý đên tất cả các mặt của mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó.[10]

Biểu hiệnSửa đổi

Nguyên lý này biểu hiện rõ thông qua sáu cặp phạm trù gồm:

  • Cái chung và cái riêng
  • Bản chất và hiện tượng
  • Nội dung và hình thức
  • Nguyên nhân và kết quả
  • Khả năng và hiện thực
  • Tất nhiên và ngẫu nhiên

Nguyên lý về sự phát triểnSửa đổi

Triết học Mác-Lênin luôn coi trọng sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Việc đặt sự vật, hiện tượng trong trạng thái luôn phát triển là một nguyên lý quan trọng của triết học Mác-Lênin. Liên hệ tức là vận động, mà không vận động thì không có sự phát triển. Nhưng vận động và phát triển là hai khái niệm khác nhau. Khái niệm vận động khái quát mọi sự biến đổi nói chung, không tính đến xu hướng và kết quả của những biến đổi ấy như thế nào. Sự vận động diễn ra không ngừng trong thế giới và có nhiều xu hướng.

Quan điểm siêu hình mà điểm trung tâm là quan niệm về tính tuyệt đối không thay đổi của giới tự nhiên, phủ nhận mọi sự biến đổi, mọi sự phát triển trong giới tự nhiên
— Engels[11]
Mỗi một sự tiến bộ trong sự phát triển hữu cơ đồng thời lại là sự thoái bộ, vì nó cũng cố sự phát triển phiến diện và loại trừ khả năng phát triển theo nhiều khuynh hướng khác nhau
— Engels[12]
Quan niệm về giới tự nhiên đã được hoàn thành trên những nét cơ bản: Tất cả những gì cố định đều biến thành mây khói, và tất cả những gì người ta cho là tồn tại vĩnh cửu thì nay đã trở thành nhất thời, và người ta đã chứng minh rằng toàn bộ giới tự nhiên đều vận động theo một vòng tuần hoàn vĩnh cửu
— Engels[13]

Nguyên lý về sự phát triển bao gồm: Quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng - chất và quy luật phủ định. Trong đó:

  • Quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển
  • Quy luật lượng - chất chỉ ra cách thức, hình thức của sự phát triển
  • Quy luật phủ định chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển.

Ba quy luật này còn có ý nghĩa trong nhận thức và hành động.

Tham khảoSửa đổi

  • Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2006
  • Giáo trình Triết học Mác - Lê nin, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2006
  • Giáo trình Triết học Mác – Lê nin, Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2004
  • Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2006
  • Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2006
  • Giáo trình Kinh tế học Chính trị Mác – Lê nin [tái bản], Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2005
  • Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam [tái bản có sửa đổi, bổ sung], Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2003
  • Nhập môn Marx, Rius [Eduardo del Rio], người dịch: Nguyễn Hà, hiệu đính: Bùi Văn Nam Sơn, Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2006
  • Một số vấn đề Triết học Mác – Lênin: Lý luận và thực tiễn [tái bản có bổ sung], Lê Doãn Tá, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2003
  • Triết học Mác – Lênin [tập II], Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 1994 [xuất bản lần thứ ba]
  • Triết học Mác – Lênin [tập III], Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 1994 [xuất bản lần thứ ba]
  • Triết học Mác – Lênin [tập II], Vụ Công tác Chính trị - Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 1996
  • Kinh tế Chính trị Mác – Lênin [in lần thứ 2 có sửa chữa, bổ sung], Vũ Anh Tuấn, Phạm Quang Phân, Tô Đức Hạnh, Nhà xuất bản Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2007
  • 100 câu hỏi và bài tập kinh tế chính trị Mác – Lênin [tái bản lần thứ 5], An Như Hải, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội, năm 2008
  • Chính trị, Bộ Giáo dục và Đào tạo – Chủ biên: Lê Thế Lạng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2004 [tái bản có bổ sung, sửa chữa]

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, năm 1994, tập 20, trang 201
  2. ^ Mác, Ph.Ăng-ghen: Tuyển tập, tập V, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1983, trang 38
  3. ^ Các Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, năm 1994, tập 20, trang 96
  4. ^ Ph.Ăng-ghen, Chống Duy-ring, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, năm 1960, trang 39
  5. ^ Các Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, năm 1994, tập 20, trang 721
  6. ^ Hồ Chí Minh: Tuyển tập, tập 2, Nhà xuất bản sự thật, Hà Nội, năm 1980, trang 72
  7. ^ Ph. Ăng-ghen: Chống Duyring, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, năm 1960, trang 35-37
  8. ^ Ph. Ăng-ghen: Biện chứng của tự nhiên, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, năm 1963, trang 335-336
  9. ^ VI.Lê nin: Toàn tập: tập 29, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mat1xcova, năm 1980, trang 239
  10. ^ VI.Lênin, Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Matcova, 1981, tập 42, trang 359
  11. ^ Ph. Ăngghen: Biện chứng của tự nhiên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, năm 1971, trang 18-19
  12. ^ Các Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, tập 2, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva, trang 261
  13. ^ C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, năm 1994, tập 20, trang 471

Video liên quan

Chủ Đề