Thế nào là một dự an đầu tư khả thi

Dự án nghiên cứu khả thi gọi tắt là dự án đầu tư. Nội dung chủ yếu của dự án đầu tư bao gồm các khía cạnh kinh tế vi mô và vĩ mô, quản lý và kỹ thuật. Những khía cạnh này ở các dự án thuộc các ngành khác nhau đều có nét đặc thù riêng, nhưng nhìn chung có thể bao gồm các vấn đề dưới đây.

Có thể coi tình hình kinh tế xã hội là nền tảng của dự án đầu tư. Nó thể hện khung cảnh đầu tư, có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển và hiệu quả kinh tế tài chính của dự án. Tình hình kinh tế xã hội đề cập các vấn đề sau đây:

- Điều kiện địa lý tự nhiên [ Địa hình, khí hậu, địa chất…] có liên quan đến việc lựa chọn thực hiện và phát huy hiệu quả của dự án này

- Điều kiện về dân số và lao động có liên quan đến nhu cầu và khuynh hướng tiêu thụ sản phẩm, đến nguồn lao động cung cấp cho dự án.

- Tình hình chính trị, môi trường pháp lý, các luật lệ và các chính sách ưu tiên phát triển của đất nước tạo điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn cho dự án đầu tư

- Tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước của địa phương, tình hình phát triển kinh doanh của ngành [ Tốc độ gia tăng GDP, tỷ lệ đầu tư so với GDP, quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, GDP/ đầu người, tỷ suất lợi nhuận sản xuất kinh doanh ] có ảnh hưởng đến quá trình thực hiện và vận hành dự án đầu tư.

- Tình hình ngoại hối, dự trữ ngoại tệ, cán cân thanh toán và nợ nần có ảnh hưởng đến các dự án phải xuất nhập khẩu hàng hoá.

Tuy nhiên, các dự án nhỏ có thể không cần nhiều dữ kiện kinh tế vĩ mô như vậy. Còn các dự án lớn thì cũng tuỳ thuộc vào mục tiêu, đặc điểm và phạm vi tác dụng của dự án mà lựa chọn các vấn đề có liên quan đến dự án để xem xét.

Thị trường là nhân tố quyết định việc lựa chọn mục tiêu và quy mô dự án. Mục đích nghiên cứu thị trường nhằm xác định các vấn đề:

- Thị trường cung cầu sản phẩm hoặc dịch vụ hiện tại của dự án, tiểm năng phát triển của thị trường này trong tương lai.

- Đánh giá mức độ cạnh tranh, khả năng chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm so với các sản phẩm cùng loại có sẵn hoặc các sản phẩm ra đời sau nay.

- Các chính sách tiếp thị và phân phối cần thiết để có thể giúp việc tiêu thụ sản phẩm của dự án

- Ước tính giá bán và chất lượng sản phẩm [ Có so sánh với các sản phẩm cùng loại có sẵn và các sản phẩm có thể ra đời sau này].

- Dự kiến thị trường thay thế khi cần thiết.

Việc nghiên cứu thị trường cần thông tin, tài liệu về tình hình quá khứ, hiện tại, tương lai của xã hội. Trường hợp thiếu thông tin hoặc thông tin không đủ độ tin cậy, tuỳ thuộc vào mức độ mà có thể sử dụng các phương pháp khác nhau để dự đoán như ngoại suy từ các trường hợp tương tự, từ tình hình của qúa khứ, sử dụng các thông tin gián tiếp có liên quan, tổ chức điều tra phỏng vấn hoặc khảo sát.

Nhiều trường hợp việc nghiên cứu thị trường còn đòi hỏi có các chuyên gia có kiến thức về sản phẩm của dự án, về những sản phẩm có thể thay thế, về quy luật và cơ chế hoạt động của thị trường, pháp luật, thương mại, chính trị, xã hội …. để có thể lựa chọn phân tích và rút ra được kết luận cụ thể, xác đáng.

Phân tích kỹ thuật là tiền đề cho việc tiến hành phân tích kinh tế tài chính của các dự án đầu tư. mục đích chính việc nghiên cứu kỹ thuật của một dự án là nhằm xác định kỹ thuật công nghệ và quy trình sản xuất, địa điểm nhu cầu để sản xuất một cách tối ưu và phù hợp nhất với những điều kiện hiện có mà vẫn đảm bảo về các yêu cầu chất lượng và số lượng sản phẩm. Các dự án không khả thi về mặt kĩ thuật, phải được loại bỏ để tránh những tổn thất trong quá trình đầu tư và vận hành kết quả đâu tư sau này.

Tuy nhiên tuỳ theo từng dự án cụ thể mà vấn đề kĩ thuật nào cần được nghiên cứu, xác định và nhấn mạnh hơn vấn đề kia. Dự án càng lớn thì các vấn đề càng phức tạp hơn, cần phải xử lý nhiều thông tin hơn và tất cả đều tương quan lẫn nhau, cũng như thứ tự ưu tiên các vấn đề này trong khi nghiên cứu tính khả thi của chúng không hẳn là thứ tự như khi soạn thảo dự án. Nội dung phân tích kỹ thuật bao gồm vấn đề dưới đây.

Tuy sản phẩm của dự án đã được xác định qua nghiên cứu thị trường nhưng cũng nên xác định lại đặc tính kỹ thuật và các chỉ tiêu kĩ thuật cần phải đạt được

- Các đặc tính kỹ thuật của sản phẩm gồm các đặc tính lý - hoá học

- Hình thức bao bì đóng gói

- Các công cụ và cách sử dụng sản phẩm

- Các phương pháp và phương tiện kiểm tra để kiểm tra chất lượng sản phẩm

- Công suất thiết kế là khả năng sản xuất sản phẩm trong một đơn vị thời gian như ngày, giờ, tháng, năm.

- Công suất lý thuyết là công suất tối đa trên lý thuyết mà nhà máy có thể thực hiện được với giả thuyết là máy móc hoạt động liên tục sẽ không bị gián đoạn do bất cứ lý do nào khác như mất điện, máy móc trục trặc, hư hỏng.

Thông thường phải ghi rõ máy móc hoạt động mấy giờ trong một ngày, thí dụ 1 ca, 2 ca,hoặc 3 ca, số ngày làm việc trong một năm, thường là 300 ngày/năm.

CS lý thuyết/năm = CS/giờ/ngày x Số giờ/ngày/năm

Công suất thực hành luôn nhỏ hơn công suất lý thuyết. Công suất này đạt được trong các điều kiện làm việc bình thường, nghĩa là trong thời gian hoạt động có thể máy móc bị ngưng hoạt động vì trục trặc kỹ thuật, sửa chữa, thay thế phụ tùng,điều chỉnh máy móc, đổi ca, giờ nghỉ, ngày lễ. Do đó, công suất thực hành trong các điều kiện hoạt động tốt nhất cũng chỉ đạt khoảng 90% công suất lý thuyết. Ngoài ra, trong những năm đẩu tiên, công suất thực hành còn tuỳ thuộc vào công việc hiệu chỉnh, lắp đặt máy móc thiết bị hoặc mức độ lành nghề của công nhân điều khiển, sử dụng máy móc thiết bị.

Khi xác định công suất thực hành của dự án, cần phải xem xét đến các yếu tố: Nhu cầu tiêu thụ sản phẩm, kỹ thuật sản xuất và máy móc thiết bị, khả năng cung ứng nguyên vật liệu hiện tại của chủ đầu tư, chi phí cho đầu tư và sản xuất. Từ việc phân tích các yếu tố trên lựa chọn một công suất tối ưu cho dự án.

Phân tích điều kiện, yếu tố để lựa chọn hình thức đầu tư: Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp quốc doanh.

Phân tích các điều kiện và lợi ích của việc huy động năng lực hiện tại, đầu tư chiều sâu, mở rộng các cơ sở đã có, so với đầu tư mới [áp dụng đối với các xí nghiệp quốc doanh] từ đó để lựa chọn hình thức đầu tư.

Nguồn và khả năng cung cấp đều đặn nguyên liệu cơ bản để sản xuất là điều kiện rất quan trọng để xác định tính sống còn cũng như tầm cỡ của đa số các dự án. Trong nhiều ngành công nghiệp, việc lựa chọn kỹ thuật sản xuất, máy móc thiết bị tuỳ thuộc vào các đặc điểm của các nguyên liệu chính, trong khi các dự án khác số lượng tiềm năng sẵn có của nguuyên liệu xác định tầm cỡ của dự án.

Nguồn cung cấp vật liệu cơ bản phải đảm bảo đủ sử dụng trong suốt đời sống của thiết bị. Nội dung của việc xác định nguyên liệu đầu vào bao gồm:

- Loại và đặc điểm của nguyên liệu cần thiết.

- Tính toán nhu cầu đầu vào cho sản xuất từng năm.

- Tình trạng cung ứng.

- Yêu cầu về dự trữ nguyên vật liệu.

- Nguồn và khả năng cung cấp.

- Chi phí cho từng lịch trình cung cấp.

Để cùng sản xuất ra một loại sản phẩm có thể sử dụng nhiều loại công nghệ và phương pháp sản xuất khác nhau. Tuỳ mỗi loại công nghệ, phương pháp sản xuất cho phép sản xuất ra sản phẩm cùng loại, nhưng có đặc tính, chất lượng và chi phí sản xuất khác nhau. Do đó, phải xem xét, lựa chọn phương án thích hợp nhất đối với loại sản phẩm dự định sản xuất, phù hợp với điều kiện kinh tế, tái chính, tổ chức, quản lý của từng đơn vị.

Lựa chọn công nghệ và phương pháp sản xuất

Để lựa chọn công nghệ và phương pháp sản xuất phù hợp cần xem xét các vấn đề sau đây:

Công nghệ và phương pháp sản xuất đang được áp dụng trên thế giới.

Khả năng về vốn và lao động. Nếu thiếu vốn thừa lao động có thể chọn công nghệ kém hiện đại,rẻ tiền, sử dụng nhiều lao động và ngược lại.

Xu hướng lâu dài của công nghệ để đảm bảo tránh lạc hậu hoặc những trở ngại trong việc sử dụng công nghệ như khan hiếm về nguyên vật liệu, năng lượng...

Khả năng vận hành và quản lý công nghệ có hiệu quả. Trình độ tay nghề của người lao động nói chung.

Nội dung chuyển giao công nghệ, phương thức thanh toán, điều kiện tiếp nhận và sự trở giúp của nước bán công nghệ.

Điều kiện về kết cấu hạ tầng, điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của địa phương có thích hợp với công nghệ dự kiến lựa chọn hay không.

Những vấn đề môi trường sinh thái liên quan đến công nghệ, khả năng gây ô nhiễm.

Các giải pháp chống ô nhiễm, bảo vệ môi trường sinh thái, điều kiện và chi phí thực hiện.

Máy móc thiết bị

Tuỳ thuộc vào công nghệ và phương pháp sản suất mà lựa chọn máy móc thiết bị thích hợp:

Các phương án máy móc thiết bị căn cứ vào trình độ tiến bộ kỹ thuật, chất lượng,giá cả, phù hợp với khả năng vận hành, sửa chữa, bảo dưỡng...

Danh mục các thiết bị sản xuất chính,phụ, hỗ trợ, các phương tiện khác, phụ tùng thay thế...

Tính năng, thông số kỹ thuật, các điều kiện bảo dưỡng, sửa chữa, thay thế, điều khiển lắp đặt thiết bị, vận hành, đào tạo công nhân kỹ thuật.

Tổng chi phí mua sắm thiết bị, chi phí lắp đặt và chi phí tự bảo dưỡng.

Việc phân tích địa điểm dự án phải chú trọng vào các mặt sau đây:

- Điều kiện tự nhiên, khí tượng thuỷ văn, địa hình, nguồn nước, địa chất, hiện trạng đất đai tài nguyên.

- Điều kiện xã hội, kỹ thuật, tình hình dân sinh, phong tục tập quán, các điều kiện về cấu trúc hạ tầng cơ sở.

- Các chính sách kinh tế - xã hội về quy hoạch và phát triển vùng.

- Ảnh hưởng của địa điểm đến sự thuận tiện và chi phí trong cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm.

- Ảnh hưởng của địa điểm đến việc tuyển chọn và thu hút lao động nói chung và lao động có chuyên môn hoặc đào tạo chuyển môn từ dân cư của địa phương là tốt nhất.

Cần chú trọng vào các vấn đề sau đây:

- Mặt bằng hiện có. Mặt bằng phải đủ rộng để đảm bảo không chỉ cho sự thuận lợi trong hoạt động của dự án mà còn đảm bảo an toàn lao động, đảm bảo mở rộng hoạt động khi cần thiết.

- Xác định các hạng mục công trình xây dựng dựa trên yêu cầu về đặc tính kỹ thuật của dây chuyền máy móc thiết bị, cơ sở hạ tầng, cách tổ chức điều hành, nhu cầu dự trữ nguyên vật liệu và sản phẩm. Các hạng mục công trình bao gồm:

+ Các phân xưởng sản xuất chính, phụ, kho bãi.

+ Hệ thống điện.

+ Hệ thống giao thông, bến đỗ, bốc dỡ hàng.

+ Văn phòng, nhà ăn, khu giải trí, khu vệ sinh

+ Hệ thống thắp sáng, thang máy, băng chuyền.

+ Hệ thống xử lý chất thải, bảo vệ môi trường.

+ Tường rào

+ Tính toán chi phí cho từng hạng mục và tổng chi phí xây dựng

+ Xác định tiến độ thi công xây lắp.

Các cơ sở hạ tầng như điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc.... của dự án được dự trù sau khi đã phân tích và chọn quy trình công nghệ, máy móc thiết bị sẽ sử dụng cho dự án và có thể trước hoặc sau khi chọn địa điểm thực hiện dự án. Các cơ sở hạ tầng ảnh hưởng đến vốn đầu tư của dự án thể hiện qua chi phí xây lắp cơ sở hạ tầng cần thiết và ảnh hưởng đến chi phí sản xuất qua những chi phí sử dụng các cơ sở hạ tầng này.

Có rất nhiều nguồn năng lượng để sử dụng như: Điện năng, các nguồn dầu hoả, xăng, diesel, khí đốt... Khi xem xét về năng lượn, căn cứ vào công nghệ và máy móc thiết bị, mà xác định nhu cầu sử dụng, nguồn cung cấp, đặc tính kinh tế... của mỗi loại năng lượng để ước tính nhu cầu và chi phí cho từng loại năng lượng sẽ sử dụng.

Có 2 loại chi phí về năng lượng: Chi phí đầu tư và chi phí sử dụng. Ví dụ nếu nhà máy trang bị máy phát điện riêng thì chi phí mua và lắp đặt sẽ tính vào vốn đầu tư của dự án. Nếu nguồn điện do Công ty điện lực cung cấp thì những chi phí phải trả hàng tháng được tính vào chi phí sử dụng.

Từ đó căn cứ vào nhu cầu và các thông số hoạt động của nhà máy để xác định chi phí cho từng loại năng lượng.

- Nhu cầu sử dụng: Tuỳ theo từng loại sản phẩm, quy trình công nghệ, máy móc thiết bị... mà xác định nhu cầu sử dụng nước cho các mục đích chính dùng để sản xuất, chế biến... và các mục đích phụ dùng để sinh hoạt cho công nhân, làm nguội thiết bị máy móc...

- Nguồn cung cấp: Dự trù nguồn cung cấp nước có thể từ các Công ty cấp nước,giếng khoan, sông ngòi... Nhiều dự án đòi hỏi phải xem xét chất lượng nước đưa vào sử dụng, điều này rất quan trọng.

- Chi phí: Căn cứ vào nhu cầu nước và giá nước do Công ty nước ấn định mà xác định chi phí sử dụng cho từng năm. Các chi phí về thiết kế hệ thống cung cấp nước nói chung tính vào chi phí đầu tư ban đầu.

Có thể là các hệ thống giao thông [đường bộ, đường sắt] tại địa điểm nhà máy. Hệ thống thông tin liên lạc như: Telex, fax... đều cần được xem xét đến tuỳ theo từng dự án.

- Nhu cầu về lao động: Căn cứ vào yêu kỹ thuật công nghệ và chương trính sẽ sản xuất của dự án để ước tính số lượng lao động cần thiết [lao động trực tiếp,gián tiếp và bậc thợ tương ứng cho mỗi loại công việc].

- Nguồn lao động; được chú ý trước hết là số lao động có sẵn tại địa phương sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi hơn từ những nơi khác.

- Chi phí lao động: Bao gồm chi phí để tuyển dụng và đào tạo, chi phí cho lao động trong các năm hoạt động của dự án sau này.

Đối với dự án mà trình độ khoa học kỹ thuật cao, chúng ta chưa đủ khả năng để tiếp nhận một số kỹ thuật hoặc đảm nhận một số khâu công việc thì khi chuyển giao công nghệ sản xuất chúng ta phải thoả thuận với bên bán công nghệ đưa chuyên gia sang trợ giúp với các công việc sau đây:

- Nghiên cứu soạn thảo các dự án khả thi có quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp.

- Thiết kế, thi công và lắp đặt các thiết bị mà trong nước không thể đảm nhận được.

- Huấn luyện công nhân kỹ thuật cho dự án.

- Chạy thử và hướng dẫn vận hành máy cho tới khi đạt công suất đã định.

- Bảo hành thiết bị theo hợp đồng mua bán công nghệ trong thời gian quy định.

Tuỳ theo việc ký kết hợp đồng mà có thể xác định được chi phí trả cho chuyên gia. Chi phí này có thể bằng ngoại tệ [tiền lương, tiền vé máy bay] và tiền Việt Nam [ăn, ở, đi lại trong nước Việt Nam có liên quan đến công việc] trong một thời gian nào đó.

Cùng với sự phát triển công nghiệp, ô nhiễm môi trường cũng gia tăng. ở nhiều nước, nhiều địa phương đã ban hành các luật lệ, quy chế buộc các cơ sở sản xuất phải tăng cường áp dụng các biện pháp xử lý chất thải. Trong nghiên cứu khả thi phải xem xét các vấn đề:

- Các chất thải do dự án thải ra.

- Các phương pháp và phương tiện xử lý chất thải, lựa chọn phải đảm bảo phù hợp với yêu cầu cho phép.

- Chi phí xử lý chất thải hàng năm.

Việc lập trình thực hiện các hạng mục công trình, từng công việc trong mỗi hạng mục, phải đảm bảo cho dự án có thể đi vào vận hành hoặc hoạt động đúng thời gian dự định. Đối với các dự án có quy mô lớn, có nhiều hạng mục công trình.kỹ thuật xây dựng phức tạp, để lập trình thực hiện dự án đòi hỏi phải phân tích một cách có hệ thống và phương pháp. Cụ thể là liệt kê, sắp xếp, phân tích nhằm xác định:

- Thời gian cần hoàn thành từng hạng mục công trình và cả công trình.

- Những hạng mục nào phải hoàn thành trước, những hạng mục nào có thể làm sau, những công việc nào có thể làm song song.

- Ngày bắt đầu hoạt động sản xuất.

Có nhiều phương pháp phân tích và lập trình thực hiện dự án khác nhau như:

- Phương pháp sơ đồ GANNT.

- Phương pháp sơ đồ PERT.

- Phương pháp CPM.

Trong đó phương pháp sơ đồ GANNT là một phương pháp đơn giản và thông dụng nhất, ra đời vào đầu thế kỷ 20. Nó có thể được áp dụng cho đa số các dự án.

Hai phương pháp sơ đồ PERT và CPM đều được hình thành trong những năm 1957-1958, tuy nhiên chúng ít thông dụng vì phức tạp hơn, chỉ áp dụng cho các dự án lớn bao gồm nhiều các hoạt động và công trình thứ tự liên quan đến nhau.

Dù cho phương pháp nào được áp dụng, điều quan trọng là lịch trình dự án cần chỉ rõ các hạng mục công trình, các công việc có tầm quan trọng hơn trong mỗi giai đoạn thực hiện dự án. Đây là kim chỉ nam để ra quyết định kịp thời và chính xác.

Phân tích phương diện tài chính của dự án nhằm các mục đích:

- Xem xét nhu cầu và sự đảm bảo các nguồn lực tài chính cho việc thực hiện có hiệu quả các dự án đầu tư.

- Xem xét những kết quả và hiệu quả hoạt động của dự án trên góc độ hạch toán kinh tế mà dự án sẽ tạo ra. Có nghĩa là xem xét những chi phí sẽ và phải thực hiện kể từ khi soạn thảo cho đến khi kết thúc dự án, xem xét những lợi ích mà dự án đem lại cho chủ đầu tư cũng như xã hội.

Để phân tích đánh giá một chủ thể, hoặc đối tượng nào đó, người ta phải áp dụng các phương pháp, các tiêu chuẩn cụ thể nhằm rút ra những kết luận xác đáng. Có nhiều cách khác nhau để đánh giá phương diện tài chính của một dự án đầu tư, nhưng hiện nay người ta thường sử dụng những phương pháp cơ bản sau:

- Phương pháp giá trị hiện tại

- Phương pháp tỉ lệ hoàn vốn nội bộ

- Phương pháp điều hoà vốn

- Phương pháp thời gian hoàn vốn đầu tư.

Cụ thể các phương pháp này như sau:

* Phương pháp giá trị hiện tại [NPV]

Giá trị hiện tại ròng của một dự án bằng tổng giá trị hiện tại của các dòng tiền sau thuế trừ đi tổng giá trị hiện tại của các khoản đầu tư cho dự án.

NPV = ∑ i = 0 n B i [ 1 + r ] i − ∑ i = 0 n C i [ 1 + r ] i size 12{ ital "NPV"= Sum cSub { size 8{i=0} } cSup { size 8{n} } { { {B rSub { size 8{i} } } over { \[ 1+r \] rSup { size 8{i} } } } } - Sum cSub { size 8{i=0} } cSup { size 8{n} } { { {C rSub { size 8{i} } } over { \[ 1+r \] rSup { size 8{i} } } } } } {}

Trong đó: Ci: Dòng tiền sau thuế của dự án tương ứng với năm i

Bi: Là các khoản đầu tư cho dự án trong năm i

n: Số năm thực hiện dự án.

r: Tỉ lệ chiết khấu mà nhà đầu tư mong muốn hoặc là chi phí sử dụng vốn bình quân.

Phương pháp giá trị hiện tại cho biết quy mô của dòng tiền [ quy đổi về gía trị hiện tại] có thể thu được từ dự án, một chỉ tiêu mà các nhà đầu tư rất quan tâm [hiện tại là thời điểm ban đầu khi mà dự án được xuất vốn đầu tư.

* Phương pháp tỉ lệ hoàn vốn nội bộ [IRR]

Tỉ lệ hoàn vốn nội sinh là tỉ lệ mà tại đó giá trị hiện tại của các dòng tiền sau thuế đúng bằng giá trị hiện tại của các khoản đầu tư cho dự án.

IRR là tỉ suất chiết khấu mà tại đó NPV = 0, và được tính theo công thức sau:

IRR = r 1 + [ r 2 − r 1 ] NPV 1 NPV 1 − NPV 2 size 12{ ital "IRR"=r rSub { size 8{1} } + \[ r rSub { size 8{2} } - r rSub { size 8{1} } \] { { ital "NPV" rSub { size 8{1} } } over { ital "NPV" rSub { size 8{1} } - ital "NPV" rSub { size 8{2} } } } } {}

Trong đó: r1 là tỉ suất chiết khấu sao cho NPV1 < 0 [càng gần 0 càng tốt]

r2 là tỉ suất chiết khấu sao cho NPV2 > 0 [càng gần 0 càng tốt]

NPV1: Giá trị hiện tại ròng ứng với tỉ suất chiết khấu r1 NPV2: Giá trị hiện tại ròng ứng với tỉ suất chiết khấu r2

Phương pháp IRR có ý nghĩa rất quan trọng. Nó cho biết mức độ sinh lợi mà dự án có thể đạt được, đem so với chi phí sử dụng vốn để thấy việc đầu tư lợi nhiều hay ít. Nó phản ánh mức độ an toàn của dự án trong trường hợp thị trường có nhiều biến động.

* Phương pháp điều hoà vốn

Điều hoà vốn là điểm cân bằng giữa doanh thu và tổng chi phí của dự án. Nó xác định khối lượng sản phẩm cần sản xuất và tiêu thụ được với một đơn giá nhất định nào đó để doanh thu vừa đủ bù đắp chi phí.

* Phương pháp thời gian hoàn vốn

Trong thực tế người ta thường tính thời gian thu hồi vốn đầu tư từ lợi nhuận thuần và khấu hao. Khi tính chỉ tiêu này người đầu tư phải quan tâm lựa chọn phương pháp khấu hao hàng năm làm sao vừa để không làm cho giá thành cao quá, vừa để kịp thu hồi vốn đầu tư trước khi kết thúc đời kinh tế của dự án hoặc trước khi máy móc lạc hậu kỹ thuật

Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó có hoạt động đầu tư phải được xem xét từ hai góc độ, người đầu tư và nền kinh tế.

Ở góc độ người đầu tư, mục đích có thể nhiều, nhưng quan trọng hơn cả thường là lợi nhuận. Khả năng sinh lợi của dự án là thước đo chủ yếu quyết định sự chấp nhận một việc làm mạo hiểm cuả nhà đầu tư. Khả năng sinh lợi càng cao thì sức hấp dẫn các nhà đầu tư càng lớn.

Song không phải mọi dự án có khả năng sinh lời cao đều tạo ra những ảnh hưởng tốt với nền kinh tế và xã hội. Do đó, trên giác độ quản lý vĩ mô cần phải đánh giá xem dự án đầu tư có những tác động gì đối với việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, xem xét những lợi ích kinh tế xã hội do việc thực hiện dự án đem lại. Điều này giữ vai trò quyết định để các cấp có thẩm quyền cho phép đầu tư.

Lợi ích kinh tế xã hội của dự án là chênh lệch giữa các lợi ích mà nền kinh tế và xã hội thu được so với các chi phí mà nền kinh tế và xã hội đã phải bỏ ra khi thực hiện dự án.

Lợi ích kinh tế xã hội của dự án được đánh giá thông qua những chỉ tiêu sau:

- Giá trị gia tăng của dự án.

- Đóng góp cho ngân sách nhà nước.

- Việc làm và thu nhập cho người lao động.

Người ta thường quan niệm đầu tư là việc bỏ vốn hôm nay để mong thu được lợi nhuận trong tương lai. Tuy nhiên tương lai chứa đầy những yéu tố bất định mà ta khó biết trước được. Vì vậy khi đề cập đến khía cạnh rủi ro, bất chắc trong việc đầu tư thì các nhà kinh tế quan niệm rằng: đầu tư là đánh bạc với tương lai. Còn khi đề cập đến yếu tố thời gian trong đầu tư thì các nhà kinh tế lại quan niệm rằng: Đầu tư là để dành tiêu dùng hiện tại và kì vọng một tiêu dùng lớn hơn trong tương lai .

Tuy ở mỗi góc độ khác nhau người ta có thể đưa ra các quan niệm khác nhau về đầu tư, nhưng một quan niệm hoàn chỉnh về đầu tư phải bao gồm các đặc trưng sau đây:

- Công việc đầu tư phải bỏ vốn ban đầu.

- Đầu tư luôn gắn liền với rủi ro, mạo hiểm…..Do vậy các nhà đầu tư phải nhìn nhận trước những khó khăn nay để có biện pháp phòng ngừa.

- Mục tiêu của đầu tư là hiệu quả. Nhưng ở những vị trí khác nhau, người ta cũng nhìn nhận vấn đề hiệu quả không giống nhau. Với các doanh nghiêp thường thiên về hiệu quả kinh tế, tối đa hoá lợi nhuận. Còn đối với nhà nước lại muốn hiệu quả kinh tế phải gắn liền với lợi ích xã hội.Trong nhiều trường hợp lợi ích xã hội được đặt lên hàng đầu.

Vì vậy một cách tổng quát ta có thể đưa ra khái niệm về lĩnh vực đầu tư như sau: Đầu tư là một hình thức bỏ vốn vào hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội nhằm thu được những lợi ích kì vọng trong tương lai.

Ở đây ta cần lưu ý rằng nguồn vốn đầu tư này không chỉ đơn thuần là các tài sản hữu hình như: tiền vốn, đất đai, nhà xưởng, máy móc, thiết bị, hàng hoá….mà còn bao gồm các loại tài sản vô hình như: bằng sáng chế, phát minh nhãn hiệu hàng hoá, bí quyết kĩ thuật, uy tín kinh doanh, bí quyết thương mại, quyền thăm dò khai thác, sử dụng tài nguyên.

Video liên quan

Chủ Đề