Tại sao phải kiểm soát quyền lực nhà nước

Quyền lực và kiểm soát quyền lực ở Việt Nam

Ngày đăng: 06/05/2021 05:30

Mặc định Cỡ chữ

Quyền lực - thực chất là công cụ của nhà quản lý để tác động, gây ảnh hưởng và điều khiển đối tượng nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức. Quyền lực không chỉ bao hàm lợi ích mà cả trách nhiệm. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có người hiểu rằng quyền lực là mục tiêu cần đạt đến, hoặc quyền lực chỉ có lợi ích mà không có trách nhiệm, do đó đã dẫn đến những hành động sai lầm khi sử dụng công cụ quyền lực trong hoạt động quản lý.

1. Quan niệm về quyền lực

Thuật ngữ quyền lực được sử dụng phổ biến trong lĩnh vực quản lý. Bertrand Russell [1872-1970] nhà triết học, lôgic học và toán học người Anh cho rằng: “Quyền lực là sự tạo ra những hiệu quả mong muốn”. Robert A.Dahl [1915-2014], nhà chính trị học người Mỹ đưa ra quan niệm: “A có quyền lực đối với B là theo nghĩa A có thể buộc B phải làm điều gì đó, còn B thì không thể bắt buộc A”. Dưới giác độ xã hội học, Max Weber [nhà xã hội học người Đức] đưa ra khái niệm: “Quyền lực trong xã hội là khả năng mà một kẻ hành động trong một mối quan hệ nhất định có thể đạt được mục đích như ý muốn của mình bất chấp sự phản kháng có thể có từ người khác cũng như những nền tảng của khả năng đó”[1].

Nhìn chung các quan điểm nêu trên đều thống nhất cho rằng quyền lực là khả năng gây ảnh hưởng đến người khác, điều khiển, bắt buộc người khác phải tuân theo yêu cầu dù có muốn hay không. Như vậy, người có quyền lực có khả năng gây ảnh hưởng, sai khiến, điều khiển, bắt buộc người khác phải thực hiện.

Nội hàm của quyền lực luôn có hai yếu tố cân đối, đó là quyền được điều khiển, sai khiến người khác [lợi ích] và sự chịu trách nhiệm về hậu quả của sự điều khiển [trách nhiệm]. Sự cân đối giữa quyền lợi và trách nhiệm cũng là nguyên tắc trong hoạt động quản lý. Người có quyền lực có khả năng yêu cầu, bắt buộc người khác phải thực hiện theo những mệnh lệnh của mình thì đương nhiên họ cũng phải chịu trách nhiệm với hành vi của nhân viên cấp dưới do mình điều khiển. Nhà quản lý khác với nhân viên ở chỗ nhân viên chỉ chịu trách nhiệm về hành vi của mình, còn nhà quản lý không chỉ chịu trách nhiệm về hành vi của mình mà còn phải chịu trách nhiệm về hành vi của nhân viên cấp dưới do mình quản lý.

Trên thực tế, các nhà quản lý quá chú ý và tận dụng triệt để các lợi ích của quyền lực mà thiếu quan tâm hoặc cố tình xem nhẹ yếu tố trách nhiệm. Đây là lý do giải thích vì sao nhiều người dùng mọi thủ đoạn để có được quyền lực. Khi có lợi ích, các nhà quản lý thường đòi hỏi vì họ cho rằng làm quản lý nên phải được hưởng các lợi ích đó, nhưng khi cần người đứng ra chịu trách nhiệm khi có sai phạm thì lại tìm mọi cách đùn đẩy trách nhiệm. Điều này làm sai lệch nguyên tắc quyền lợi và trách nhiệm của công cụ quyền lực. Việc cân đối giữa quyền lợi và trách nhiệm trong công cụ quyền lực vô cùng quan trọng đối với các nhà quản lý. Bất kỳ sự mất cân bằng về quyền lợi và trách nhiệm đều dẫn đến sự bất ổn trong tổ chức. Vị trí mà trách nhiệm nhiều, quyền lợi ít thì sẽ khó điều khiển người khác, nhân viên thường sẽ không nghe theo mệnh lệnh của nhà quản lý. Khi đó nhà quản lý sẽ rất khó khăn trong việc quản lý, tổ chức thực hiện để đạt được mục tiêu chung và như vậy, nhà quản lý không muốn đảm nhận vị trí đó.

Trách nhiệm ít, quyền lợi nhiều sẽ dẫn đến tình trạng độc đoán, chuyên quyền, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi cá nhân. Cá nhân trong tổ chức sẽ không dám nêu ý kiến, quan điểm của mình vì nhà quản lý có quá nhiều quyền lực và lợi ích. Điều này cũng dẫn đến tình trạng tranh giành quyền lực trong tổ chức, các cá nhân sẽ tìm mọi cách - kể cả dùng thủ đoạn để có được quyền lực. Quyền lực càng lớn thì trách nhiệm càng cao. Do đó, bất kỳ một sự thiên lệch nào giữa lợi ích và trách nhiệm đều gây ra những khó khăn cho nhà quản lý và là nguy cơ gây bất ổn cho tổ chức. Vì vậy, việc xác lập quyền hạn và trách nhiệm đối với mỗi vị trí luôn là một vấn đề khó trong công tác thiết kế, xây dựng bộ máy tổ chức, đòi hỏi nhà quản lý phải thấm nhuần và xác định rõ quyền và trách nhiệm trong quá trình thực hiện các hoạt động của mình.

2. Quyền lực - công cụ quản lý đặc biệt

Quản lý là một quá trình tác động, điều khiển của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng những công cụ, phương tiện khác nhau nhằm đạt được mục tiêu chung của tổ chức, từ đó chủ thể quản lý sẽ sử dụng các công cụ, phương tiện khác nhau để tác động, điều khiển đối tượng quản lý. Dưới giác độ khoa học quản lý, chủ thể quản lý thường sử dụng công cụ vật chất; công cụ phi vật chất và công cụ quyền lực. Tùy thuộc vào hoàn cảnh, đối tượng khác nhau mà các nhà quản lý sử dụng linh hoạt các công cụ nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Việc lựa chọn công cụ phù hợp với hoàn cảnh, đối tượng phản ánh trình độ, năng lực, nghệ thuật của nhà quản lý.

Trong các công cụ quản lý, công cụ quyền lực được sử dụng phổ biến và được các nhà quản lý tận dụng triệt để vì tính hiệu quả mà nó mang lại. Khi xem xét công cụ quyền lực, cần hiểu rõ nội hàm để sử dụng cho đúng và hiệu quả. Trong hoạt động quản lý, quyền lực là một loại công cụ đặc biệt vì chỉ được sử dụng trong mối quan hệ giữa con người với con người [giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý], các hoạt động quản lý khác không sử dụng yếu tố quyền lực. Quyền lực là vô hình, nhưng hậu quả và hiệu quả mang lại là hữu hình. Trên thực tế, hoạt động quản lý không thể thực hiện nếu thiếu quyền lực và trong các công cụ quản lý, công cụ quyền lực được chứng minh là có hiệu quả nhất.

Nghiên cứu về công cụ quyền lực cho thấy có nhiều cách phân chia quyền lực khác nhau như: quyền lực cưỡng bức, quyền lực thông tin, quyền lực khen thưởng, quyền lực chuyên môn, quyền lực địa vị… Tuy nhiên, cách tiếp cận mang tính khái quát và toàn diện nhất thường được đề cập đến là cách phân loại quyền lực của Amitai Etzioni, nhà xã hội học người Mỹ. Theo đó, quyền lực trong tổ chức được phân thành hai loại: quyền lực địa vị và quyền lực cá nhân.

Quyền lực địa vị là quyền lực có được khi nhà quản lý đảm nhận một vị trí nhất định trong tổ chức. Quyền lực địa vị do cấp trên trao cho và nó luôn hữu hạn.

Quyền lực cá nhân xuất phát từ lòng yêu mến, kính trọng của những người xung quanh, của cấp trên, cấp dưới, đồng nghiệp, khách hàng… Sự yêu mến, kính trọng có thể do tài năng, đức độ, phong cách, lối sống… của cá nhân đó. Quyền lực cá nhân chủ yếu xuất phát từ cấp dưới, do cấp dưới mang lại cho nhà quản lý.

Quyền lực địa vị và quyền lực cá nhân có vai trò quan trọng như nhau trong quản lý. Quyền lực địa vị mang tính cưỡng bức, buộc cá nhân phải thực hiện, việc sử dụng quyền lực địa vị có thể mang lại hiệu quả nhanh nhưng dễ dẫn đến sự xung đột, đối tượng quản lý có thể “khẩu phục” nhưng “tâm không phục”. Trong khi đó sử dụng quyền lực cá nhân sẽ mang tính mềm dẻo, tự nguyện và bền vững hơn, nhưng mất thời gian, tính hiệu quả không cao, nhất là đối với những đối tượng cố tình chống phá tổ chức. Mỗi loại quyền lực đều có những ưu điểm, hạn chế riêng nhưng bổ trợ cho nhau và không thể thiếu đối với nhà quản lý. Khi nhà quản lý thiếu hoặc yếu một trong hai loại quyền lực này sẽ rất khó thực hiện hoạt động quản lý một cách bình thường.

Nếu nhà quản lý có quyền lực địa vị nhưng không có quyền lực cá nhân, tức là có địa vị trong tổ chức nhưng lại không có uy tín, không được những người xung quanh kính trọng, nể phục, tin tưởng thì sẽ rất khó điều khiển, sai khiến người khác. Nhân viên có thể thực hiện công việc theo mệnh lệnh nhưng sẽ không nhiệt tình, không có động lực, trước mặt nhà quản lý họ có thể tuân theo, nhưng thể hiện thái độ không tôn trọng. Tình trạng này xảy ra rất phổ biến ở những nhà quản lý thiếu năng lực, chuyên môn.

Mặt khác, nếu nhà quản lý chỉ có quyền lực cá nhân, có uy tín nhưng lại không có vị trí thực quyền trong tổ chức sẽ không có điều kiện, cơ hội để thể hiện năng lực, tài năng của mình. Do đó, cần có cả quyền lực địa vị và quyền lực cá nhân sẽ đảm bảo tính bền vững trong sự phát triển của hoạt động quản lý. Tuy nhiên phải linh hoạt, không phải lúc nào nhà quản lý sử dụng uy danh của địa vị để uy hiếp, ra mệnh lệnh cho đối tượng quản lý đều mang lại hiệu quả. Một nhà quản lý giỏi, tài năng phải là người hội tụ đủ cả quyền lực địa vị và quyền lực cá nhân và biết sử dụng quyền lực hợp lý vì mục tiêu chung của tổ chức.

3. Kiểm soát quyền lực

Quyền lực trong các tổ chức công quyền ở nước ta hiện nay là quyền lực nhà nước. Về bản chất, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân trên nền tảng chính trị - xã hội do Đảng lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật, tổ chức quản lý xã hội bằng pháp luật một cách dân chủ và bảo đảm thượng tôn pháp luật. Quyền lực nhà nước được giao cho một số cá nhân là cán bộ, công chức để thực hiện các hoạt động quản lý xã hội. Như vậy, khi cán bộ, công chức thực hiện công vụ là đang đại diện, sử dụng các nguồn lực của Nhà nước để thực hiện công vụ.

Trong các tổ chức công, quyền lực là của Nhà nước, người thực thi công vụ là đại diện cho Nhà nước và sử dụng quyền lực của Nhà nước để thực hiện công việc. Với vị trí, vai trò là công cụ đặc biệt của các nhà quản lý, quyền lực luôn gắn với lợi ích nên dễ bị lợi dụng vào những mục đích tư lợi, cá nhân, nhất là những cá nhân được giao thực hiện nhiệm vụ công. Công cụ quyền lực được phát huy mạnh mẽ trong những tổ chức công do tính mệnh lệnh cao của mô hình tổ chức cơ học. Cán bộ, công chức, viên chức khi thực hiện công vụ là đại diện cho Nhà nước nên hình ảnh, hành động, lời nói không còn mang tính cá nhân mà đại diện cho cơ quan, đơn vị, Nhà nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp dĩ công vi tư”[2]. Người cũng đã cảnh báo nguy cơ những cán bộ có chức, có quyền dễ mắc phải “căn bệnh” lạm quyền, lộng quyền, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền. Do đó, quyền lực cần phải được kiểm soát chặt chẽ. Việc kiểm soát quyền lực không chỉ để cho người có quyền lực sử dụng đúng mục đích, không lạm dụng quyền vào những việc tư lợi mà còn nhằm bảo vệ, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của các cá nhân, đơn vị.

Quy định số 205/QĐ/TW ngày 23/9/2019 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền đã giải thích cụ thể về khái niệm kiểm soát quyền lực: “Kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ là việc sử dụng cơ chế, biện pháp nhằm thực hiện nghiêm túc các quy định về công tác cán bộ; phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm các quy định của Đảng, Nhà nước, nhất là các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, lộng quyền hoặc không thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và những việc phải làm trên cương vị được giao trong công tác cán bộ”[3]. Quy định đã chỉ rõ những hành vi bị cấm trong công tác cán bộ nhằm kiểm soát quyền lực. Quy định cũng xác định rõ trách nhiệm của các bộ phận, các cấp trong việc kiểm soát quyền lực. Đồng thời, đề ra chủ trương, định hướng rõ ràng việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ cũng như chống chạy chức, chạy quyền.

4. Một số giải pháp trong việc kiểm soát quyền lực đối với nhà quản lý

Nội dung kiểm soát quyền lực là một trong những vấn đề tiếp tục được Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng quan tâm, nêu ra những biện pháp quyết liệt để tăng tính hiệu quả trong thực tiễn. Dưới góc độ quản lý nhà nước, cần tập trung vào một số giải pháp sau đây.

Một là, cần quy định rõ ràng, cụ thể về cơ chế, thủ tục, biện pháp kiểm soát quyền lực.

Qua gần 02 năm thực hiện Quy định số 205-QĐ/TW của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền cho thấy Quy định này chỉ giới hạn về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ. Trên thực tế vẫn còn có rất nhiều nội dung, các vấn đề liên quan đến quyền lực cần được làm rõ. Do đó, cần có quy định rõ ràng, cụ thể về vấn đề kiểm soát quyền lực dưới dạng nghị quyết chuyên đề. Nghị quyết cần mở rộng ở nhiều nội dung và các vấn đề khác trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung. Bởi vì, trong tất cả các hoạt động của hệ thống chính trị đều sử dụng công cụ quyền lực và khi đó nguy cơ bị lạm quyền sẽ xuất hiện.

Hai là, phải thể chế hóa việc kiểm soát quyền lực ở các cơ quan hành chính nhà nước.

Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã quyết liệt trong thực hiện phương châm: “Không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”[4], trong xử lý các cá nhân, tổ chức vi phạm các quy định của Đảng cũng như hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, việc thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng còn chậm. Hiện nay, chưa có các quy định cụ thể về việc kiểm soát quyền lực ở khu vực các cơ quan hành chính. Do đó, cần nghiên cứu để sớm ban hành các quy định cụ thể về kiểm soát quyền lực ở khu vực này.

Ba là, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc quyền và trách nhiệm trong sử dụng quyền lực.

Trong thực tế, có nhiều nhà quản lý không biết hoặc cố tình không biết phần trách nhiệm của quyền lực. Khi có địa vị thì tận dụng triệt để mang lại quyền lợi, bổng lộc cho mình, nhưng khi xảy ra sự việc cần người “đứng mũi chịu sào”, cần người chịu trách nhiệm thì đùn đẩy, né trách đổ lỗi cho người khác. Nguyên tắc “quyền và trách nhiệm tương xứng với nhau” bắt buộc các nhà quản lý phải hiểu, thấm nhuần và nghiêm túc thực hiện. Tổ chức giao cho nhà quản lý quyền được quyết định, điều hành mọi nguồn lực để thực hiện mục tiêu thì đồng thời cũng yêu cầu phải chịu trách nhiệm về hoạt động của tổ chức.

Đồng thời, để hạn chế việc lạm quyền cần phải có công cụ quyền lực lớn hơn để kiểm soát công cụ quyền lực nhỏ hơn, có nghĩa là “dùng quyền lực để kiểm soát quyền lực”. Vì vậy, các quy định phải đủ mạnh, đảm bảo sức răn đe, sự nghiêm minh của pháp luật. Khi các quy định, chế tài kiểm soát quyền lực đủ sức răn đe sẽ làm cho người sử dụng quyền lực dù muốn vi phạm cũng không dám làm. Bên cạnh đó, cần có sự kiểm soát chéo giữa những người có quyền lực, giữa những cơ quan, bộ phận với nhau. Việc kiểm soát chéo nhằm giám sát lẫn nhau, kịp thời ngăn chặn việc sử dụng quyền lực không đúng mục đích, lạm quyền của nhà quản lý. Để kiểm soát quyền lực khu vực công rất cần có các quy định để kiểm soát quyền lực ngay từ bên trong, giám sát chéo giữa các cơ quan, trong đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp phải phát huy vai trò trung tâm, đại diện cho các tầng lớp nhân dân.

Bốn là, tăng cường tính dân chủ, minh bạch trong hoạt động của tổ chức.

Tăng cường dân chủ, minh bạch trong hoạt động của tổ chức là giải pháp giúp cho các thành viên trong tổ chức thực hiện việc giám sát, sử dụng quyền lực của nhà quản lý. Các bước của quy trình quản lý như lập kế hoạch, ra quyết định, tổ chức thực hiện, phối hợp, kiểm tra, đánh giá đều công khai, có sự tham gia bàn bạc dân chủ sẽ hạn chế việc lạm quyền. Trong đó, cần thực hiện tốt phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Việc sử dụng công cụ quyền lực hiệu quả, hợp lý sẽ đem lại sự ổn định và phát triển bền vững, phát huy được trí tuệ và sức mạnh tập thể của mỗi cá nhân trong tổ chức. Cán bộ, công chức, viên chức phải nhận thức rõ quyền và trách nhiệm trong hoạt động quản lý, quyền càng lớn thì trách nhiệm càng cao. Hoạt động quản lý thành công hay thất bại phụ thuộc rất lớn vào việc sử dụng công cụ quyền lực và kiểm soát quyền lực một cách hiệu lực, hiệu quả. Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng đã xác định rõ: “Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong từng khâu của công tác cán bộ, nhất là đối với người đứng đầu cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị, chủ tịch ủy ban nhân dân. Giữ vững kỷ luật, kỷ cương; tăng cường kiểm tra, giám sát, chống chạy chức, chạy quyền. Không để lọt những người không xứng đáng, không đảm bảo tiêu chuẩn, điều kiện, có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhưng cũng không để sót những cán bộ thực sự có đức, có tài”[5]./.

---------------------------

Ghi chú:

[1] Md. Saidul Islam, 2008, p2 và Guy Rocher, 1986, p9

[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG - ST, H. 2011, tr.127.

[3] Bộ Chính trị, Quy định số 205-QĐ/TW ngày 23/9/2019 về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền.

[4] Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Phiên họp thứ 14 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, ngày 16/8/2018.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb CTQG-ST, H. 2021, tr. 243.

Tài liệu tham khảo:

1. Ban Tuyên giáo Trung ương, Tài liệu học tập các Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII [dùng cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở], Nxb CTQG-ST, H. 2018.

2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG - ST, H. 2011.

3. Nguyễn Văn Tạo [2011], Quyền lực, Tạp chí Nhà quản lý, số 88, tr. 20-22.

4. Vũ Ngọc Hoàng, Quyền lực nhất thiết phải được kiểm soát, Tạp chí Cộng sản, số 890 [tháng 12/2016].

5. Nhị Lê, Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực chính trị trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, //moha.gov.vn/danh-muc/hoan-thien-co-che-kiem-soat-quyen-luc-chinh-tri-trong-he-thong-chinh-tri-viet-nam-hien-nay-40950.html, truy cập ngày 09/9/2020.

TS Nguyễn Văn Tạo - Khoa Quản trị nguồn nhân lực, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội

tcnn.vn

Về trang trước

Gửi email In trang

Quyền lực và kiểm soát quyền lực ở nước ta

[ĐCSVN] - Cuộc đấu tranh phòng, chống tha hóa quyền lực, kiểm soát quyền lực đòi hỏi quyết tâm chính trị cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, theo phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, tạo ra sức mạnh tổng hợp để thực hiện có hiệu quả cao nhất.

1. Bản chất quyền lực và sự tha hóa quyền lực

Từ khi xã hội loài người phân chia thành giai cấp: Thống trị và bị trị thì quyền lực của giai cấp thống trị xuất hiện và quyền lực của giai cấp thống trị lại chỉ tập trung vào một nhóm người hay thậm chí một người được giao quyền thay mặt cho giai cấp thống trị để cai quản, quản lý, điều hành xã hội, thống trị những người bị thống trị. Quyền lực trong các xã hội có giai cấp thống trị và bị thống trị là nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, thậm chí bảo vệ lợi ích của một nhóm người, thậm chí một người được giao quyền thống trị, cai quản, quản lý, điều hành xã hội. Trong xã hội XHCN hay ở nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, tất cả quyền lực thuộc về Nhân dân. Nhưng Nhân dân chỉ trực tiếp thực hiện một số quyền lực nhất định như: Quyền ứng cử, bầu cử, thực hiện các quyền sống, quyền tự do, dân chủ, quyền học hành, đi lại, v.v...; còn những quyền chung như: Quyền huy động, phân bổ mọi nguồn lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; quyền quản lý, điều hành xã hội; quyền quản lý phát triển kinh tế, quản lý phát triển văn hóa; quyền quản lý, điều hành thống nhất sự nghiệp an ninh, quốc phòng, v.v..., thì Nhân dân trao cho các cơ quan, tổ chức do Nhân dân lập nên, bầu lên, thậm chí Nhân dân trao quyền cho một nhóm, thậm chí trao cho một cá nhân đại diện Nhân dân thực hiện. Các tổ chức, các nhóm người, các cá nhân được Nhân dân trao quyền lực mà thực hiện đúng, thực hiện tốt, thực hiện có hiệu quả những chức trách, nhiệm vụ được giao, vì dân. vì nước thì đem lại nhiều lợi ích cho Nhân dân, cho đất nước.

Quyền lực là năng lực, khả năng của một tổ chức hay cá nhân, tác động đến hành động, hành vi của những người khác, buộc họ phải thực hiện ý chí của mình thông qua các phương tiện, phương thức nào đó như: Uy tín, quyền hành, cơ chế, chính sách, quy định, thậm chí cưỡng bức thực hiện.


Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã
xem xét, quyết định nhiều vấn đề hệ trọng, trong đó có vấn đề
xây dựng cán bộ cấp chiến lược. [Ảnh: H.H].

Nhưng khi quyền lực của tổ chức, của nhóm người, thậm chí của một người, khi đã được Nhân dân trao cho rồi thì rất dễ bị tha hóa. Tha hóa là sự làm biến chất thành xấu đi hoặc thành cái khác đối nghịch lại.Tha hóa quyền lực là việc thực hiện không đúng, không đầy đủ, không hết hoặc vượt quá quyền lực được trao trong quá trình thực thi chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, như: Lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực, không thực hiện hay thực hiện không hết quyền lực được trao.Tha hóa quyền lực làm biến tướng bản chất, mục đích của quyền lựcđó: Quyền lực đã không được thực hiện vì mục đích chung, vì lợi ích chung, vì lợi ích của Nhân dân, mà quyền lực bị tha hóa đã thực hiện vì mục đích của “nhóm lợi ích”, vì lợi ích của cá nhân.

Có sự tha hóa quyền lực của cả một tổ chức, của cả một nhóm người, thậm chí của một cá nhân. Xã hội càng văn minh thì sự tha hóa quyền lực càng tinh vi. Khi quyền lực Nhân dân trao cho tổ chức, cho nhóm người, cho cá nhân bị tha hóa thì cần phải có sự kiểm soát quyền lực. Quyền lực bị tha hóa mà không bị kiểm soát thì sẽ gây nhiều hệ lụy tiêu cực cho xã hội, cho Nhân dân. Trao quyền lực, thực thi quyền lực cũng đồng thời với việc phải kiểm soát quyền lực.

Quyền lực của tổ chức, của nhóm người, của cá nhân không phải là quyền lực tự có, mà là quyền lực của Nhân dân, được Nhân dân trao cho họ, ủy quyền cho họ thực hiện để phục vụ Nhân dân, phục vụ cho việc xây dựng, phát triển đất nước vàchính Nhân dân là chủ nhân kiểm soát quyền lực, xem các tổ chức, các nhóm người, các cá nhân có thực hiện đúng, đủ quyền lực Nhân dân trao cho họ hay không. Trên thực tế, có những tổ chức, những nhóm người, những cá nhân khi được Nhân dân trao cho quyền lực nào đó thì thường lại biến quyền lực của Nhân dân trao cho thành quyền lực của tổ chức mình, nhóm người mình, cá nhân mình. Đó là sự tha hóa quyền lực, mà Nhân dân cần phải kiểm soát.

Nguyên nhân sâu xa của sự tha hóa quyền lực là chủ nghĩa cá nhân, là lợi ích cá nhân của bản thân, của gia đình, của “nhóm lợi ích”. Bộ máy tổ chức, một nhóm người hay một cá nhân là do Nhân dân dựng lên, bầu ra, bổ nhiệm để trao quyền lực, ủy quyền thực hiện chức trách, nhiệm vụ vì lợi ích chung, vì lợi ích của Nhân dân; nhưng khi được trao quyền lực rồi thì bộ máy đó, nhóm người đó, cá nhân đó lại tách rời khỏi xã hội, tách rời khỏi Nhân dân, đứng trên xã hội, đứng trên Nhân dân, biến quyền lực Nhân dân trao thành quyền lực của mình, thực hiện chúng vì lợi ích cá nhân của bản thân, của gia đình, của “nhóm lợi ích”.

2. Kiểm soát quyền lực

Tất cả quyền lực là thuộc về Nhân dân và Nhân dân là chủ thể kiểm soát quyền lực, vì vậy để phòng, chống sự tha hóa quyền lực, để kiểm soát quyền lực, thì Nhân dân phải thực sự làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân mình. Nhân dân phải thực sự tham gia vào quá trình quản lý đất nước, tham gia quản lý xã hội, tham gia quản lý nhà nước, tham gia quản lý, điều hành quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quá trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh - quốc phòng… của đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”[1]. Bao nhiêu quyền hạn, quyền lực đều thuộc về Nhân dân, do vậy mà có quyền Nhân dân trực tiếp làm, trực tiếp thực hiện; có quyền Nhân dân giao hay ủy quyền cho một tổ chức hay một nhóm người, thậm chí cho một người thực hiện. Và khi đã giao, đã ủy quyền thì Nhân dân phải kiểm tra, kiểm soát, giám sát xem tổ chức, nhóm người, cá nhân được giao quyền, ủy quyền có thực hiện đúng, đầy đủ, nghiêm túc chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ được giao không hay lại lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực vì mục đích cá nhân, vì “lợi ích nhóm”. Nhân dân giao quyền, ủy quyền cho các tổ chức trong hệ thống chính trị thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân công và có sự phối hợp để thực hiện mục tiêu chung là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, trong đó có bộ máy nhà nước ta.

Khi nói về Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Nhà nước ta là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Người dạy “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới kính ta, yêu ta.”[2]Nhân dân giao quyền cho bộ máy nhà nước thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp theo nguyên tắc có sự phân công và phối hợp để bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về Nhân dân và Nhân dân kiểm soát việc thực thi quyền lực của bộ máy nhà nước. Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm đến cá nhân người cán bộ khi được trao quyền lực, Người cho rằng: cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Sau khi có đường lối đúng thì khâu quyết định là lựa chọn đúng cán bộ. Người căn dặn: Cán bộ là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân. Người cho rằng: “đức” là cái gốc của cán bộ. Để chống lại tình trạng lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực vì lợi ích cá nhân, Người đòi hỏi các cơ quan Đảng, Nhà nước, các đoàn thể và cán bộ phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhân dân và sự kiểm tra, giám sát của tổ chức Đảng. Người nhắc nhở: “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân…”[3]. Vì vậy, cần phải “quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bảy tỏ cách sửa chữa sai lầm đó”, “cán bộ muốn cho xứng đáng, phải làm được việc”[4]. Theo Hồ Chí Minh, cơ chế kiểm soát quyền lực đối với bộ máy nhà nước, chính là kiểm soát “cán bộ”: “công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”[5].

Kiểm soát quyền lực thông qua việc thực thi thực chất, đầy đủ và rộng rãi quyền làm chủ của Nhân dân, cả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và dân chủ tham dự; thực hiện nghiêm phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”; thông qua chế độ tranh cử, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý công khai, minh bạch; thông qua chế độ thực sự công khai, minh bạch mọi công việc của đất nước, của Nhân dân phải rất coi trọng chế độ công khai, minh bạch: công khai, minh bạch chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tất cả các tổ chức, các cơ quan, đơn vị, của tất cả các cá nhân từ người giữ cương vị cao nhất đến cán bộ, công chức, viên chức để Nhân dân kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực hiện; công khai, minh bạch thông tin và trách nhiệm giải trình của các tổ chức và cá nhân được trao quyền lực; thông qua việc kiểm tra, giám sát của các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, của Nhân dân, của công luận; thông qua việc tự do tư tưởng, tự do ngôn luận để Nhân dân thể hiện chính kiến của mình tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, xây dựng hệ thống chính trị; Nhân dân tham gia xây dựng đất nước, làm chủ đất nước. Muốn vậy, phải nâng cao trình độ dân trí, Nhân dân phải vươn lên làm chủ thực sự mọi công việc của đất nước. Đại hội XII của Đảng chỉ rõ “tiếp tục phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân, được Nhân dân tham gia ý kiến”[6]. Nhân dân có quyền chất vấn, yêu cầu cơ quan nhà nước phải giải trình, có quyền phản đối những việc làm sai trái, có quyền yêu cầu cán bộ không đủ tư cách phải từ chức hoặc bị cách chức… Khuyến khích công luận lên tiếng phê phán, phản đối những việc sai trái để tăng sức đề kháng của cơ thể xã hội… Phát huy mạnh mẽ, chủ động, tích cực sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của toàn dân vào việc kiểm soát quyền lực. Xây dựng và thực thi cơ chế, chế tài đủ mạnh để các tổ chức bộ máy, các nhóm người, các cá nhân được giao quyền lực phải thực hiện đúng, đầy đủ, có trách nhiệm chức trách, nhiệm vụ được giao, không dám - không thể - không muốn lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực vì mục đích, lợi ích cá nhân. Cuộc đấu tranh phòng, chống tha hóa quyền lực, kiểm soát quyền lực đòi hỏi quyết tâm chính trị cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, theo phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” tạo ra sức mạnh tổng hợp để thực hiện có hiệu quả cao nhất.

Kiểm soát quyền lực phải trên cơ sở kết hợp giữa xây và chống, lấy xây là chính, chống phải kiên quyết, nghiêm minh và lấy chống để xây. Kiểm soát quyền lực không có “vùng cấm”, không loại trừ bất cứ đối tượng nào, ở bất kỳ cấp nào, giữ bất kỳ cương vị nào: Nếu lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực vì lợi ích cá nhân, tham nhũng, “lợi ích nhóm” đều phải được kiểm tra, thanh tra, điều tra, xem xét, kết luận và xử lý nghiêm minh theo kỷ luật của Đảng và xử lý nghiêm hoặc truy tố theo pháp luật của Nhà nước. Bổ sung, hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước để có cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ và có chế tài xử lý nghiêm minh những tổ chức, những cá nhân lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực vì mục đích vì lợi ích cá nhân, vì “lợi ích nhóm”. Phải quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là người đứng đầu, không để xảy ra tình trạng tha hóa quyền lực, tham nhũng, “lợi ích nhóm”. Để kiểm soát quyền lực thực sự có hiệu quả đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người có chức, có quyền phải tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu để trở thành người thực sự có “tâm”, có “tầm”, vượt lên chính mình, vượt lên ma lực cám dỗ của quyền lực, của đồng tiền. Thực tế đã chỉ ra rằng: Khi được trao quyền lực thì luôn có xu hướng tha hóa quyền lực. Có người khi chưa được trao quyền lực thì là người rất tốt, nhưng khi được trao quyền lực lại thay đổi bản chất rất nhanh, chỉ sau một lần bỏ phiếu, sau một lần được bổ nhiệm… người đó đã ra dáng “quan cách mạng”, dần trở nên tha hóa, hư hỏng, trở thành người xấu vì lợi ích thấp hèn của cá nhân, của “nhóm lợi ích”. Khi được trao quyền lực cũng là lúc bắt đầu đánh mất dần chính bản thân mình, đánh mất bản chất tốt đẹp, chân chính trước đó. Trên đỉnh cao quyền lực, ít người để ý, nhìn thấy tai họa ẩn chứa từ bên trong quyền lực ấy, nếu không phải là người lãnh đạo có nhân cách lớn, minh triết, uyên thâm, suốt đời vì dân vì nước.

Do vậy,việc kiểm soát quyền lực trước tiên thuộc về cơ chế tự kiểm soát của mỗi cán bộ, đảng viên có chức, có quyền. Họ phải tự thấy rõ đó là quyền lực của Nhân dân, Nhân dân trao cho họ, ủy quyền cho họ thực hiện vì mục đích chung, vì lợi ích của Nhân dân; không phải là quyền lực riêng của họ, nên họ phải thực hiện đúng, đủ quyền lực, thực hiện đúng, hiệu quả chức trách, nhiệm vụ được trao, không được lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực vì lợi ích cá nhân. Vì vậy, cán bộ và công tác cán bộ là công việc hết sức hệ trọng, quyết định sự thành - bại của sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta, của Đảng ta./.

PGS. TS. Vũ Văn Phúc - Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương

[1]Hồ Chí Minh: toàn tập, tập 5, NXB CTQG, H., 2000, tr. 698.

[2]Hồ Chí Minh: toàn tập, tập 4, NXB CTQG, H., 2000, tr. 57.

[3]Hồ Chí Minh: toàn tập, tập 5, NXB CTQG, H., 2000, tr. 104-105.

[4]Hồ Chí Minh: toàn tập, tập 5, NXB CTQG, H., 2000, tr. 208.

[5]Hồ Chí Minh: toàn tập, tập 5, NXB CTQG, H., 2000, tr. 273.

[6]Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H., 2016, tr. 169.

Mục lục

  • 1 Đặc điểm
  • 2 Cơ chế kiểm soát
    • 2.1 Khái niệm
    • 2.2 Đặc điểm
    • 2.3 Yếu tố cấu thành
      • 2.3.1 Thể chế pháp lý
      • 2.3.2 Thiết chế
  • 3 Ghi chú

Tại sao phải kiểm soát quyền lực?

|

Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 có nhiều điều mới. So với Hiến pháp năm 1992, dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 giữ nguyên 14 điều; sửa đổi, bổ sung 99 điều và bổ sung mới 11 điều. Các điều vừa sửa đổi, vừa bổ sung mới là 110 điều. Như vậy, cơ bản Hiến pháp đã sửa đổi khá nhiều. Tôi tâm đắc với nhiều điều sửa đổi lần này, trong đó có chế định về kiểm soát quyền lực.

Ngay tại Chương I, dự thảo tiếp tục khẳng định Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Quyền lực của Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Điều 2 trong dự thảo thể hiện đúng tinh thần của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [bổ sung, phát triển năm 2011]. Đây là điểm mới của dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 lần này.

Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là tại sao phải có quy định kiểm soát quyền lực?

Thực tế, khi đã hình thành quyền lực thì phải có sự kiểm soát quyền lực. Việc hình thành quyền lực, dù là quyền lực của tổ chức hay là của cá nhân, thì cũng phải được kiểm soát. Nếu quyền lực nhà nước không được kiểm soát sẽ dễ dẫn đến tình trạng lạm quyền, lộng quyền, chuyên quyền, lợi dụng quyền lực để trục lợi, hoặc làm sai lệch bản chất của Nhà nước pháp quyền. Tôi cho rằng, kiểm soát quyền lực là nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền, để các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp thực thi có hiệu quả và hiệu lực chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được Hiến pháp quy định và được nhân dân ủy quyền. Mọi quyền lực thuộc về nhân dân, các cơ quan lập pháp, tư pháp và hành pháp được nhân dân ủy quyền và được Hiến pháp quy định, thì các quyền lực đó phải được kiểm soát chặt chẽ; tránh tình trạng tổ chức hoặc cá nhân lợi dụng quyền lực để phục vụ cho lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm. Thực tế điều hành đất nước, quản lý xã hội trong thời gian qua đã cho bài học sâu sắc: nơi nào, cấp nào thiếu vắng kiểm soát, giám sát quyền lực là nơi đó có vấn đề về lạm quyền.

Cơ chế kiểm soát quyền lực cũng được thể hiện rất rõ trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Theo đó, QH là cơ quan lập pháp, xây dựng pháp luật để toàn bộ bộ máy nhà nước và người dân thực hiện, các cơ quan trình dự án luật, QH thông qua luật, Chủ tịch Nước có quyền công bố luật, pháp lệnh; nếu luật, pháp lệnh QH đã thông qua, nhưng còn có vấn đề thì Chủ tịch Nước có quyền không công bố luật, pháp lệnh. Hành pháp là cơ quan hành chính nhà nước, thực hiện quyền năng điều hành đất nước theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Cơ quan tư pháp, trong đó Viện kiểm sát nhân dân giữ quyền công tố và Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử. Cơ quan xét xử phải xét xử độc lập và tuân theo pháp luật. Các cơ quan khác như lập pháp, hành pháp hoặc các tổ chức chính trị, xã hội không được can thiệp vào việc xét xử của cơ quan tư pháp. Đó chính là kiểm soát quyền lực lẫn nhau. Đặc biệt nhân dân có quyền kiểm soát những cơ quan do mình ủy quyền, đó là cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 thể hiện rõ nội dung này ở các chương và các điều cụ thể. Trong Chương V về QH, Điều 74 [sửa đổi, bổ sung Điều 83 Hiến pháp hiện hành] đã nêu rõ chức năng, quyền hạn của QH: QH là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. QH thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.

Bên cạnh đó, Điều 75 [sửa đổi, bổ sung Điều 84] cũng quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của QH trên các mặt công tác như xây dựng, sửa đổi Hiến pháp; xây dựng, sửa đổi Luật; quyền giám sát tối cao, quyền quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; quyết định các chính sách về dân tộc, tổ chức, hoạt động của QH, của Chủ tịch Nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân; bầu, bãi nhiệm các chức danh do QH, HĐND bầu hoặc phê chuẩn... Như vậy, trong Điều 75, dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã có 15 nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của QH. Trong Chương V cũng quy định về vai trò của UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, và các Ủy ban của QH, cơ chế phối hợp, thực hiện chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan.

Tương tự như vậy, trong Chương VI, Chủ tịch Nước, Điều 91, quy định Chủ tịch Nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Điều 92, 93 và các điều khác trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Nước.

Quy định về kiểm soát quyền lực trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cho thấy, QH quy định tổ chức và hoạt động của QH, Chủ tịch Nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, chính quyền địa phương và các cơ quan khác do QH thành lập. QH bầu Thủ tướng Chính phủ, phê chuẩn danh sách các thành viên Chính phủ trên cơ sở đề nghị của Thủ tướng Chính phủ như Phó thủ tướng và các thành viên khác của Chính phủ. Định kỳ tại các Kỳ họp, QH tiến hành giám sát các hoạt động của Chính phủ bằng cách xem xét báo cáo của Chính phủ, nếu cần, ra các Nghị quyết về các báo cáo của Chính phủ, hiệu quả hoạt động của Chính phủ qua báo cáo đó.

Đối với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng tương tự, QH cũng xem xét báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Điều đó có nghĩa, QH giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Đối với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao, trên cơ sở chức năng của mình, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, QH không can thiệp vào nhiệm vụ xét xử và công tố của cơ quan tư pháp. Chính phủ là cơ quan hành pháp. QH không can thiệp trực tiếp vào sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ. Đó chính là tính độc lập giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là: QH kiểm soát cơ quan tư pháp và hành pháp, thì ai kiểm soát QH? Đó chính là nhân dân. Nhân dân bầu ra ĐBQH bằng lá phiếu của mình, nhân dân ủy quyền quyền lực của mình cho QH, kiểm soát mọi hoạt động của QH. Cử tri thực hiện kiểm soát, giám sát hoạt động của ĐBQH do mình bầu ra.

Bên cạnh đó, điểm mới trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là Điều 120, với việc thành lập Hội đồng Hiến pháp, do QH thành lập và chỉ tuân theo pháp luật, cũng là một cơ quan để giúp kiểm soát quyền lực nhà nước. Hội đồng Hiến pháp tương tự Hội đồng bảo hiến ở các nước. Nếu các văn bản của QH thông qua mà vi hiến thì Hội đồng Hiến pháp có thể thổi còi. Nếu xét xử của cơ quan tư pháp, quyết định hành chính của cơ quan hành pháp vi hiến, vi phạm quyền công dân, quyền con người, Hội đồng Hiến pháp cũng có thể cảnh báo, yêu cầu không được làm hoặc yêu cầu dừng lại. Tức là Hội đồng Hiến pháp kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật của QH, Chủ tịch Nước, UBTVQH, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành.

Kiểm soát quyền lực là nguyên tắc của nhà nước pháp quyền để các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực thi có hiệu lực, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo luật định, khắc phục tình trạng lạm quyền, lộng quyền.


Báo Điện tử VnMedia

Video liên quan

Chủ Đề