Tại sao nền văn hóa Hy Lạp Rôma đạt được nhiều thành tựu rực rỡ như thế

Tóm tắt mục 3. Văn hóa cổ đại Hi Lạp và Rô-ma

Mục a

Việc sử dụng công cụ bằng sắt và sự tiếp xúc với biển đã mở ra cho cư dân Địa Trung Hải một chân trời mới, nâng họ lên một trình độ cao hơn về sản xuất, buôn bán trên biển. Đó cũng là cơ sở để họ đạt tới trình độ sáng tạo văn hoá cao hơn thời trước.

a] Lịch và chữ viết

* Lịch

- Người Hi Lạp đã có hiểu biết chính xác hơn về Trái Đất và hệ Mặt Trời.

- Tính được 1 năm có 365 ngày và 1/4, định ra một tháng lần lượt có 30 và 31 ngày, riêng tháng hai có 28 ngày.

* Chữ viết

- Người Hy Lạp, Rô ma đã có chữ viết cổ. Nhưng chữ của họ có quá nhiều hình, nét, kí hiệu; khả năng phổ biến bị hạn chế. 

- Sáng tạo ra hệ thống chữ cái Rô-ma, tức là hệ A, B, C... ban đầu gồm 20 chữ, sau thêm 6, làm thành hệ thống chữ cái hoàn chỉnh như ngày nay.

- Có hệ chữ số mà ngày nay ta thường dùng để đánh số các đề mục lớn, gọi là “số La Mã”.

=> Sự ra đời của hệ thống chữ cái là một phát minh và cống hiến lớn lao của cư dân Địa Trung Hải cho nền văn minh nhân loại.

Chữ cái cổ Hi Lạp và La-tinh

Mục b

b] Sự ra đời của khoa học

Đến thời cổ đại Hy Lạp - Rô ma, những hiểu biết khoa học mới thực sự trở thành khoa học vì có độ chính xác của khoa học đạt tới trình độ khái quát thành định lý, lý thuyết và nó được thực hiện bởi các nhà khoa học có tên tuổi, đặt nền móng cho ngành khoa học đó.

+ Toán học: người Hi Lạp vượt lên trên như Ta-lét, Pi-ta-go, Ơ-clít,...

+ Vật Lý: có Ác-si-mét.

+ Sử học: vượt qua sự ghi chép tản mạn, họ biết tập hợp tài liệu, phân tích và trình bày có hệ thống: Hê-rô-đốt, Tu-xi-đít, Ta-xít,...

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Lịch sử lớp 10 - Xem ngay

1. Thiên nhiên và đời sống của con người.

- Hi Lạp, Rô-ma nằm ở ven biển Địa Trung Hải, nhiều đảo, đất canh tác ít và khô cứng đã tạo ra những thuận lợi và khó khăn:

+ Thuận lợi: Có biển, hải cảng, khí hậu ấm áp, nên giao thông thuận lợi, sớm phát triển nghề hàng hải, ngư nghiệp, thương nghiệp biển.

+ Khó khăn: Đất xấu, ít, thích hợp trồng cây lưu niên như nho, ô liu, cam chanh. Lương thực thiếu phải mua lúa mì, lúa mạch của người Ai Cập, Tây Á.

- Khoảng đầu thiên niên kỷ I TCN, cư dân Địa Trung Hải  bắt đầu biết chế tạo công cụ bằng sắt, cho phép khai hoang trên diện tích rộng hơn.

- Thủ công nghiệp rất phát đạt, có nhiều ngành nghề, nhiều thợ giỏi làm ra những sản phẩm nổi tiếng như đồ gốm [bình, chum, bát] có màu sắc và hình vẽ đẹp. Nhiều xưởng thủ công sản xuất ra hàng hóa có chất lượng cao, quy mô lớn…

- Thương nghiệp đường biển rất phát triển, mở rộng buôn bán với mọi miền ven Địa Trung Hải, với các nước phương Đông:

+ Sản phẩm mua về  lúa mì, súc vật lông thú [Hắc Hải, Ai Cập]; tơ lụa, hương liệu, xa xỉ phẩm từ phương Đông.

+ Đê-lốt, Pi-rê là trung tâm buôn bán nô lệ lớn của thế giới cổ đại.

+ Thương mại phát đạt, thúc đẩy sự lưu thông tiền tệ [tiền cổ của Rô-ma và A-ten].

+ Hi Lạp, Rô-ma trở thành các quốc gia giàu mạnh.

2. Thị quốc Địa Trung Hải.

- Do tình trạng đất đai phân tán nhỏ và cư dân sống bằng nghề thủ công và thương nghiệp nên đã hình thành các thị quốc.

- Nước thì nhỏ, nghề buôn phát triển nên cư dân tập trung ở thành thị có phố sá, lâu đài đền thờ, sân vận động, nhà hát và bến cảng, đó là thị quốc. A-ten là thị quốc đại diện cho cả At-tích.

- Tính chất dân chủ của thị quốc: Quyền lực không nằm trong tay quý tộc mà nằm trong tay Đại hội công dân. Đại hội công dân bầu và cử ra các cơ quan nhà nước, [không có vua], quyết định mọi công việc nhà nước. Hội đồng 500 có vai trò như Quốc hội, người ta  bầu 10 viên chức điều hành chính phủ, nhiệm kỳ một năm.

- Bản chất của nền dân chủ cổ đại ở Hi Lạp, Rô-ma là nền dân chủ chủ nô, dựa vào sự bóc lột thậm tệ của chủ nô đối với nô lệ.

- Thị quốc cổ đại là độ thị buôn bán, làm nghề thủ công và sinh hoạt dân chủ, mỗi thành thị là một nước riêng.

- Lãnh thổ thị quốc không rộng nhưng dân số đông, đất trồng trọt ít nhưng có điều kiện phát triển buôn bán nên luôn luôn giữa quan hệ buôn bán với nhau và các vùng xa nên rất giàu có.

- Hi Lạp giàu có nhờ nền kinh tế công thương nghiệp, sử dụng lao động nô lệ. Nô lệ bị bóc lột nên phản kháng chủ nô.

3. Văn hóa cổ đại Hi Lạp và Rô-ma.

Đồ sắt và sự tiếp xúc với biển đã mở ra cho cư dân Địa Trung Hải chân trời mới, nâng họ lên  trình độ cao hơn về sản xuất và buôn bán trên biển cũng là cơ sở để họ đạt tới trình độ sáng tạo văn hóa cao hơn trước.

a]. Lịch và chữ viết:

- Người Hi Lạp có hiểu biết chính xác hơn về Trái Đất và hệ Mặt Trời, người Rô-ma tính một năm là 365 ngày ¼, định ra một tháng lần lượt có 30 và 31 ngày, riêng tháng hai có 28 ngày, rất gần với hiểu biết ngày nay.

- Người Ai Cập, Lưỡng Hà và một số cư dân khác đã có chữ viết cổ nhưng do chữ có nhiều hình, nét, kí hiệu nên khả năng phổ biến bị hạn chế. Họ đã sáng tạo ra chữ viết gồm ký hiệu đơn giản, có khả năng ghép chữ rất linh hoạt thành từ để thể hiện ý nghĩa của con người.

- Hệ thống chữ cái Rô-ma tức A, B, C… ra đời, ban đầu gồm 20 chữ, sau thêm 6 chữ. Họ cũng có hệ chữ số mà hiện nay thường dùng để đánh số các đề mục [số La Mã]. Sự ra đời của hệ thống chữ cái là một phát minh và cống hiến lớn lao cho nhân loại.

b]. Sự ra đời của khoa học:

Đến thời cổ đại Hi Lạp – Rô-ma, những hiểu biết khoa học mới thực sự trở thành khoa học vì có độ chính xác của khoa học đạt tới trình độ khái quát thành định lý, lý thuyết và nó được thực hiện bởi các nhà khoa học nổi tiếng như Ta-lét, Pi-ta-go, Ơ-clít..

c]. Văn học:

- Ở Hi Lạp, sau bản anh hùng ca nổi tiếng của Hô-me là I-li-át và Ô-đi-xê đã xuất hiện những nhà văn có tên tuổi mà những tác phẩm của họ đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

- Người Rô-ma tự nhận là học trò và người thừa kế của văn học - nghệ thuật Hi Lạp, nhưng họ cũng có những nhà thơ nổi tiếng như Lu-cre-xơ, Viếc-gin..

d]. Nghệ thuật:

- Người Hi Lạp cổ đại để lại nhiều tượng và đền đài đạt trình độ tuyệt mỹ, khiến đời sau khâm phục như người lực sĩ ném đĩa, tượng nữ thần A-tê-na đội mũ chiến binh, thần Vệ nữ Mi-lô…

- Rô-ma có nhiều kiến trúc như đền đài, cầu màng dẫn nước, trường đấu… oai nghiêm, đồ sộ nhưng không tinh tế, gần gũi như những công trình ở Hi Lạp.

vì Cư dân cổ đại Hy Lạp và Rô-ma đã xây dựng được một nền văn hóa cổ đại phát triển cao với những giá trị sau:

– Lịch và thiên văn học: Cư dân Địa Trung Hải đã tính được một năm có 365 ngày và 1/4 ngày nên họ định ra một tháng lần lượt có 30 và 31 ngày riêng tháng 2 có 28 ngày.

– Chữ viết: Phát minh ra hệ thống chữ a,b,c,… lúc đầu có 20 chữ sau được bổ sung thêm 6 chữ nữa để trở thành hệ thống chữ cái hoàn chỉnh.

– Sự ra đời của khoa học: Chủ yếu trên các lĩnh vực toàn, lý, sử, địa. Trong lĩnh vực Toán học đã biết khái quát thành các định lý định đề . Khoa học đến Hy Lạp và Rô-ma thực sự trở thành khoa học.

– Văn học: chủ yếu là kịch với các nhà viết kịch nổi tiếng Ê-sin, Sô-phốc,…

– Nghệ thuật: Nghệ thuật tạc tượng thần và xây dựng đền thơ thần đạt đến đỉnh cao như tượng thần vệ nữ Mi-lô, lực sĩ ném đá, đền thờ Pac-tê-nông,…

Các nhà sử học thường công nhận các triều đại sau đây đã thống nhất được Trung Quốc bản thổ: triều Tần, triều Tây Hán, triều Tân, triều Đông Hán, triều Tây Tấn, triều Tùy, triều Đường, triều Võ Chu, triều Bắc Tống, triều Nguyên, triều Minh, và triều Thanh.

Các nhà sử học thường công nhận các triều đại sau đây đã thống nhất được Trung Quốc bản thổ: triều Tần, triều Tây Hán, triều Tân, triều Đông Hán, triều Tây Tấn, triều Tùy, triều Đường, triều Võ Chu, triều Bắc Tống, triều Nguyên, triều Minh, và triều Thanh.

Sau Hi Lạp, Rôma là quốc gia cổ đại của Phương Tây có nền văn hóa phát triển rực rỡ. Sự phát triển ấy có được nhờ 2 yếu tố cơ bản sau đây:

Bạn đang xem: Vì sao văn hóa cổ đại hi lạp và rô ma phát triển rực rỡ

Thứ nhất: Nền văn hóa Rôma hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của sự phát triển mạnh mẽ của chế độ chiếm nô. Những thành tựu văn hóa của Rôma đã đạt được chính là kết quả tất yếu của sự phát triển toàn diện, điển hình của chế độ chiếm nô cổ điển ở khu vực Địa Trung Hải. Ph.Enghen đã nhận xét: “Không có chế độ nô lệ, thì không có quốc gia Hi Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hi Lạp, không có chế độ nô lệ thì cũng không có quốc gia Rôma cổ đại”. Thứ hai: Nền văn hóa Rôma đã được kế thừa một cách trực tiếp nền văn hóa Hi Lạp, đồng thời văn hóa Rôma cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc, toàn diện của nền văn hóa Hi Lạp. 

Cũng như Hi Lạp, nền văn hóa Rôma phát triển toàn diện, rực rỡ. Những thành tựu xuất sắc trên tất cả các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, triết học… cho tới nay vẫn là những bộ phận hết sức quý báu trong kho tàng văn hóa thế giới, thậm chí còn là những mẫu mực để người đời sau bắt chước. Thành tựu văn hóa Rôma [và cả Hi Lạp] không những đã đảm bảo cho những quốc gia này trở thành những quốc gia điển hình trong thế giới cổ đại mà nó còn góp phần đặt nền móng cho sự phát triển của nền văn minh nhân loại nói chung và châu Âu nói riêng ở những thời kì lịch sử tiếp theo đúng như nhận xét của Ph.Enghen: “Không có cơ sở văn minh Hi Lạp và đế quốc Rôma thì cũng không có châu Âu hiện đại”. Ảnh hưởng của văn hóa Hi Lạp thể hiện khá rõ trong mọi lĩnh vực của văn hóa Rôma. Bởi thế, về đại thể, văn hóa Rôma Có chung một phong cách với văn hóa Hi Lạp. Tuy nhiên, Rôma vẫn có những bản sắc riêng của nó Yếu tố Hi Lạp được gieo trồng ở Rôma đã được Rôma hóa để được nuôi dưỡng, phát triển lên trở thành những yếu tố Rôma. Bên cạnh chữ Hi Lạp, tiếng Latinh vẫn được sử dụng và ngày càng trở nên thông dụng, phổ biến. Người Rôma tiếp thu hệ thống các thần Hi Lạp nhưng cải biên đi, mang sắc thái Rôma, Thần Dớt của Hi Lạp với người Rôma lại là thần Giupite. Thần ái tình Hi Lạp Aphrodit, với Rôma là nữ thần Vênuýt. Nét nổi bật của Văn học Rôma chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học Hi Lạp mặc dù đề tài của thơ ca, tác phẩm văn học là những đề tài Rôma, viết bằng tiếng Latinh và có tiếp thu truyền thống văn học dân gian cổ xưa. Điều này cũng dễ giải thích vì nhiều nhà thơ, nhà văn Rôma vốn gốc là người Hi Lạp hoặc chí ít cũng đã từng sống, từng du học ở Hi Lạp. Thời kì phát triển rực rỡ nhất của văn học Rôma là thời kì trị vì của Ôctaviuxơ [27 TCN – 14 sau CN]. Văn học Rôma bao gồm nhiều thể loại: thơ trữ tình, thơ trào phúng, sử thi, kịch, văn xuôi… Trong số những đại biểu xuất sắc của nền văn học Rôma, có Anđrônicuxơ người Tarantơ – một thành bang Hi Lạp thuộc Nam Italia – ông đã dịch Ôđixê của Hôme ra tiếng Latinh để phổ biến rộng rãi ở Rôma. Nôviuxơ với trường ca “Cuộc chiến tranh Puních” gồm 7 quyển. Mácxiuxơ Plôtuxơ [254 – 184 TCN] vừa là nhà thơ, vừa là nhà soạn kịch nổi tiếng. Thơ của ông thông cảm sâu sắc với quần chúng nghèo khó, căm ghét chiến tranh, tiêu biểu là tập thơ “ông chủ và những người nô lệ”. Catuluxơ [87 – 45 TCN] nữ thi sĩ trữ tình, em gái của quan bảo dân Clauđiuxơ, tác giả của những bài thơ viết về nàng Lexbi nồng cháy yêu đương. Xêda không những là một nhà chính trị, quân sự tài ba mà còn là một nhà sử học, văn học tài hoa. “Kí sự về cuộc chiến tranh ở xứ Golơ” của Xêda đã đạt đến trình độ nghệ thuật điêu luyện. Nhiều người cho rằng đó là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nền văn học – sử học Rôma. Viếcgiliuxơ [70 – 19 TCN] được coi là nhà thơ lớn nhất của Rôma cổ đại với những tập thơ nổi tiếng “Những bài ca của người chăn nuôi”, “Khuyến nông”, đặc biệt là tập thơ tự sự có tính chất thần thoại gồm 12 bài lấy tiêu đề “Enêít” phỏng theo Ôđixê của Hôme, ca ngợi sự dũng cảm, quyết liệt của người Rôma, ca ngợi sự phồn vinh của Rôma thời Ôctaviuxơ. Hôraliuxơ là con của một nô lệ được giải phóng, đã từng du học ở Hi Lạp [Aten] chịu ảnh hưởng sâu nặng văn học, triết học Hi Lạp. Tác phẩm tiêu biểu là tập thơ “Ca ngợi” gồm 103 bài. Ôviđiuxơ [43 TCN – 17 CN] xuất thân từ một gia đình kị sĩ giàu có, tác giả của nhiều tập thơ nổi tiếng ở Rôma : “Tình ca”, “Nghệ thuật yêu đương”, “Nữ anh hùng”, “Những bài thơ buồn” và nhất là tập thơ “Biến hình” gồm 15 chương. Đầu thế kỉ III TCN, lịch sử Rôma bắt đầu được ghi chép thành văn. Lúc đầu các nhà sử học Rôma ghi chép lịch sử bằng tiếng Hy Lạp, từ cuối thế kỉ III TCN, tiếng Latinh đã được dùng phổ biến. Nhà sử học nổi tiếng nhất của Rôma ở thế kỉ II TCN là Polybiuxơ [205 – 125 TCN], gốc người Hi Lạp. Bộ “Thông sử” của ông gồm 40 quyển thuật lại một cách khái quát lịch sử Hi Lạp, Rôma và các nước Đông bộ Địa Trung Hải trong khoảng hơn 100 năm [từ năm 264 đến năm 146 TCN]. Polybiuxơ là nhà sử học Rôma đầu tiên chú ý đến phương pháp sử học, chú ý đến việc biên soạn lịch sử nhiều nước và nhất là nhận thức rõ tác dụng giáo dục của lịch sử với cuộc sống, coi quan điểm sử học là triết học, lấy sự việc thật để dạy người đời.

Xem thêm: Kính Đề Nghị Tiếng Anh Là Gì

Tinux Liviuxơ [59 – 17 TCN] người sống cùng thời với Ôctaviuxơ đồng thời cũng là nhà sử học tiêu biểu trong giai đoạn lịch sử này. Tác phẩm tiêu biểu: “Lịch sử Rôma” gồm 142 chương, trình bày lịch sử Rôma từ khởi thủy đến thế kỉ XIX TCN. Tiếc rằng hiện nay bộ sử 142 chương này chỉ còn lại 35 chương. Taxituxơ [55 – 120] là nhà sử học sáng giá nhất của Rôma ở thế kỉ I, II, tác giả của bộ “Lịch sử”, “Lịch sử xứ Giécmani”, “Lịch sử biên niên”. Nét đáng ghi nhận ở Taxituxơ là ông viết sử không chỉ có ca ngợi mà còn nhiều lần phê phán những điểm xấu xa của chế độ chuyên chế Rôma. Pơlutác [50 – 125] gốc người Hi Lạp, tác giả của “tiểu sử so sánh” [hay còn gọi là “Truyện các danh nhân Hi Lạp Rôma”; với bút pháp tài tình, Pơlutác đã phác họa rõ nét, chân thực và sinh động các danh nhân trong lịch sử Hi Lạp Rôma. Pơlutác là người đầu tiên xây dựng cơ sở cho thể loại truyện kí lịch sử và là người đầu tiên đã đưa nhân vật Xpáctacuxơ vào tác phẩm sử học của mình. Về khoa học tự nhiên [thiên văn, vật lí, địa lí, y học…], người Rôma không đạt được những thành tựu lớn như người Hi Lạp. Về cơ bản, các nhà khoa học tự nhiên Rôma chủ yếu là tiếp thu chỉnh lí những thành tựu vốn có trước của người Hi Lạp [có bổ sung những kiến thức mới]. Nhà khoa học Pơliniuxơ [23 – 79] được coi là học giả uyên thâm nhất. Bộ sách “Lịch sử tự nhiên” gồm 37 chương là một bộ bách khoa toàn thư của Rôma cổ đại, tổng kết những thành tựu khoa học kĩ thuật cổ đại gồm đủ mọi tri thức về thiên văn, địa lí, động vật học, thực vật học, nông học, luyện kim, y học, hội họa, điêu khắc… Pơliniuxơ cũng là nhà khoa học Rôma đầu tiên chú trọng đến phương pháp thực nghiệm và chính ông đã bỏ mình [năm 79] trong khi đang tiến hành khảo sát núi lửa Vêduvơ. Nhà thiên văn học, địa lí học và toán học xuất sắc nhất của Rôma là Clauđiuxơ Ptôlêmê [giữa thế kỉ II] sinh trưởng ở thành phố Alếchxanđơri [Ai Cập]. Ptôlêmê đã đúc kết những thành tựu thiên văn của Ai Cập, Babilon, Ba Tư, Hi Lạp để biên soạn bộ sách “Hệ thống vũ trụ”. Ptôlômê thừa nhận quả đất hình cầu, nhưng lại sai lầm khi cho rằng quả đất là trung tâm của vũ trụ và đứng yên tại chỗ. Học thuyết của Ptôlômê đã chi phối khoa học thiên văn châu Âu trong suốt 1400 năm, mãi tới thế kỉ XVI mới bị học thuyết của Côpécních đánh đổ. Ptôlômê còn được thừa nhận là người đã vẽ được bản đồ thế giới tương đối chuẩn xác nhất. Bản đồ thế giới của Ptôlômê lúc đó có 3 châu – Á, Âu và Phi – Với vùng cực Bắc là bán đảo Xcăngdinavơ, vùng Cực Nam là lưu vực sông Nin, phía tây là đất đai xứ Tây Ban Nha, còn phía đông là Trung Quốc. Đại biểu xuất sắc của lĩnh vực y học Rôma là Clauđiuxơ Galênuxơ [131 – đầu thế kỉ III] gốc người Tiểu Á. Galênuxơ đã tổng kết được những thành tựu y học, dược học và biên soạn nhiều sách giáo khoa y học, được học, giải phẫu học. Sách của ông đã được dịch và sử dụng ở nhiều nước. Galênuxơ cũng là nhà y học thực nghiệm đầu tiên của Rôma. Triết học Rôma không phong phú và sáng tạo như triết học Hi Lạp. Nhìn chung triết học Rôma chủ yếu là kế thừa và phát triển các trường phái, học thuyết triết học Hi Lạp, có cải biên hoặc làm sáng tỏ thêm để thích hợp với thời đại lúc bấy giờ. Triết học Rôma cũng bao gồm nhiều trường phái khác nhau: triết học duy vật, chiết trung, khắc kỉ, hoài nghi, trường phái Platôn mới, trường phái Pitago mới… Nhà triết học duy vật tiêu biểu và xuất sắc nhất là Lucrêtiuxơ [98 – 55 TCN] người sống cùng thời với Xêda. Lucrêtiuxơ đã phát triển quan điểm triết học duy vật của Epicuya [Hi Lạp]. Trong tác phẩm “Bàn về bản chất của sự vật], Lucrêtiuxơ đã phê phán kịch liệt quan điểm tôn giáo, bác bỏ những quan niệm mê tín, tin vào thần thánh. Trong thuyết nguyên tử, ông cho rằng vạn vật trong vũ trụ đều do nguyên tử tạo thành và phát triển theo quy luật nội tại của nó, có tính bảo toàn, vĩnh hằng, không bị tiêu huỷ hoàn toàn mà chỉ có hiện tượng tan rã của những vật thể mà thôi. Lucrêtiuxơ còn có những đóng góp đáng kể trình bày về nguồn gốc loài người và sự tiến hóa của xã hội loài người theo quan điểm triết học duy vật biện chứng. Từ giữa thế kỉ I TCN trở đi, triết học Rôma chuyển dần sang phạm trù duy tâm, cơ sở của nó là trường phái Xtôixít của Hi Lạp. Xixêrô [106 – 43 TCN] là đại biểu lỗi lạc của triết học chiết trung. Quan điểm của ông đứng giữa chủ nghĩa hoài nghi và chủ nghĩa khắc kỉ. Công lao lớn của Xixêrô là đã dịch các tác phẩm triết học Hi Lạp sang tiếng Latinh, giúp cho người Rôma [sau này là cả người châu Âu] tiếp xúc và nắm bắt được triết học Hi Lạp. Xênecơ, thầy dạy của bạo chúa Nêrô, là đại biểu xuất sắc nhất của trường phái triết học duy tâm thuộc phái Xtôixít, phái khắc kỉ. Ông viết khá nhiều “Bàn về nhân từ”, “Bàn về phẫn nộ”, “Bàn về sự yên tĩnh”, “Bàn về cuộc sống hạnh phúc”,… Trong các tác phẩm của mình, Xênecơ chú ý nhiều tới phạm trù đạo đức, chủ trương nhẫn nhục, chịu đựng gian khổ, lấy sự phục tùng làm đức tính tốt đẹp của con người. Ở Rôma cổ đại còn tồn tại những học thuyết của trường phái triết học duy tâm Pitago mới và Platôn mới. Các học thuyết này cho rằng con người không có khả năng nhận thức được chân lí, chỉ có các thần thánh mới có khả năng này. 

Video liên quan

Chủ Đề