Tài sản nào không phải tài sản của nhà nước

Người gửi: Mai Linh [Bình Dương]

[ Ảnh minh họa:Internet]
Tư vấn luật: 1900 6589

Xin chào bạn! Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình tới Luật Việt Phong. Về câu hỏi của bạn, công ty Luật Việt Phong xin tư vấn và hướng dẫn bạn như sau:

– Bộ luật dân sự năm 2005

Tài sản là của cải vật chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng. Khi phân loại tài sản theo chu kỳ sản xuất, ta có tài sản cố định và tài sản lưu động. Còn khi phân loại tài sản theo đặc tính cấu tạo của vật chất, ta có tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Một khái niệm khác cho rằng: Tài sản là bất cứ thứ gì có giá trị mà có thể chuyển đổi được thành tiền mặt.

Pháp luật hiện nay không quy định khái niệm tài sản là gì mà liệt kê những thứ thuộc tài sản, theo đó tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản [căn cứ Điều 163 Bộ luật dân sự 2005]. Trong đó giấy tờ có giá bao gồm những giấy tờ như trái phiếu, cổ phiếu, kỳ phiếu…; các quyền tài sản [quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng,…].

Theo quy định tại Điều 181 Bộ luật dân sự năm 2005: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”.

Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo pháp luật.

Bên cạnh đó Điều 174 và Điều 200 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:

Điều 174. Bất động sản và động sản

1. Bất động sản là các tài sản bao gồm:

a] Đất đai;

b] Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó;

c] Các tài sản khác gắn liền với đất đai;

d] Các tài sản khác do pháp luật quy định.

2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản”.

Điều 200. Tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước

Tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước bao gồm đất đai, rừng tự nhiên, rừng trồng có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi tự nhiên ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác do pháp luật quy định”.

Như vậy, từ những căn cứ pháp luật nêu trên, có thể kết luận đất đai là một loại tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Bởi vì đất đai là một bộ phận quan trọng của lãnh thổ quốc gia, được hình thành, tồn tại và phát triển cùng với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta đã bỏ ra biết bao nhiêu công sức khai phá, cải tạo đất cũng như xương máu để gìn giữ từng tấc đất của quốc gia. Vì vậy, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, không thuộc sở hữu của bất cứ cá nhân, tổ chức nào. Nhà nước với những đặc trưng vốn có của mình, là thiết chế trung tâm của hệ thống chính trị, là công cụ để nhân dân thực hiện quyền lực nhân dân dưới hình thức dân chủ đại diện. Vì vậy, nhà nước là thiết chế đại diện cho nhân dân, chủ sở hữu duy nhất đối với đất đai ở nước ta, thực hiện quyền chủ sở hữu đối với đất đai.

Trên đây là tư vấn của công ty Luật Việt Phong về Tài sản bao gồm những gì? Chúng tôi hy vọng rằng quý khách có thể vận dụng các kiến thức kể trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Nếu có vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn quý khách vui lòng gọi điện tới tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của công ty Luật Việt Phong để gặp luật sư tư vấn và chuyên viên pháp lý.

Trong công ty cổ phần có vốn nhà nước, cần coi Nhà nước cũng là một cổ đông

[ĐTCK] Thời gian gần đây, chứng kiến nhiều vụ án hình sự về thiệt hại, trách nhiệm liên quan đến quản lý tài sản nhà nước tại doanh nghiệp cổ phần do Nhà nước nắm quyền chi phối, trong đó có các ngân hàng, một câu hỏi được nhiều người đặt ra: Tài sản nào được coi là tài sản nhà nước tại doanh nghiệp?

Đó là phần vốn mà Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp

Câu trả lời là vậy! Chúng ta có thể dùng một logic pháp lý sau đây để chứng minh.

Hãy bắt đầu từ quy định về quản lý tài sản công, bởi khái niệm tài sản công đã bao hàm tài sản nhà nước. Tại khoản 1, Điều 98, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 có quy định: “1. Việc quản lý, sử dụng tài sản công do Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý và đã được tính thành phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp được thực hiện theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp và pháp luật có liên quan”.

Chúng ta có nhiều tài sản công, nằm rải rác trong nhiều lĩnh vực. Ví dụ, trong lĩnh vực quân sự, tài sản công là hệ thống khí tài, vũ khí cùng các tài sản khác mà quân đội quản lý. Trong lĩnh vực hành chính, sự nghiệp, thì tài sản công là các bất động sản, phương tiện… mà các đơn vị hành chính, sự nghiệp đang quản lý.

Luật sư Trần Minh Hải, Giám đốc điều hành Công ty Luật Basico

Đối với lĩnh vực doanh nghiệp, phân tích từ quy định tại khoản 1, Điều 98, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công nêu trên, thì tài sản công là gì? Đó là những tài sản mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý, được tính thành phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Do vậy, phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp chính là tài sản nhà nước.

Lấy một ví dụ, Nhà nước sở hữu 3,2 triệu cổ phần tại một ngân hàng, tương đương với số tiền trị giá 32.000 tỷ đồng tính theo mệnh giá. Tại ngân hàng, thực chất Nhà nước chỉ là một cổ đông trong số hàng nghìn cổ đông tổ chức, cá nhân khác. Nếu như ngân hàng đó có một khoản tiền trị giá 32.000 tỷ đồng trong tài khoản, thì khoản tiền thuộc về ngân hàng chứ không phải của riêng Nhà nước.

Nhà nước không thể can thiệp, yêu cầu ngân hàng chuyển giao khoản tiền trong tài khoản đó để Nhà nước chiếm hữu, sử dụng. Bởi vì tài sản của một công ty độc lập với chính các cổ đông sở hữu nó. Một điều rõ ràng để khẳng định, tài sản của công ty không phải là tài sản nhà nước.

Trong ví dụ nêu trên, tài sản duy nhất thuộc sở hữu Nhà nước tại ngân hàng chính là 3,2 triệu cổ phần trị giá mệnh giá 32.000 tỷ đồng.

Phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp chính là cổ phần trong các công ty cổ phần, phần vốn góp trong các công ty trách nhiệm hữu hạn.

Vì lý do này, Luật Quản lý sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất - kinh doanh tại doanh nghiệp được ban hành với 66 điều luật, chỉ tập trung vào các vấn đề quản lý đối với phần vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp.

Nhầm lẫn pháp luật về xác định tài sản nhà nước

Tham khảo từ một vụ án thực tế, cuối năm 2012, ông Nguyễn Huy Hùng về làm việc tại chi nhánh một ngân hàng có vốn nhà nước sở hữu chi phối. Phụ trách chi nhánh ngân hàng này, điều ông Hùng rất quan tâm là tình hình nợ tồn đọng và giải pháp xử lý.

Trùng thời điểm ông Hùng mới nhận vị trí Giám đốc, chi nhánh ngân hàng nhận được đề xuất cho bán tài sản bảo đảm nhằm xử lý nợ từ phía một người chủ tài sản bảo đảm. Lục trong hồ sơ lưu trữ tại chi nhánh ngân hàng, thì đây là trường hợp liên quan đến các khoản nợ xấu khó đòi của hai công ty kinh doanh sản phẩm gỗ. Hai khoản nợ này có tài sản bảo đảm là các quyền sử dụng đất, đã quá hạn trả nợ từ lâu và đã được ngân hàng trích lập 100% dự phòng tín dụng.

Chủ tài sản bảo đảm đề xuất cho phép chuyển nhượng các quyền sử dụng đất thế chấp để lấy tiền thanh toán nợ ngân hàng cho hai công ty nói trên. Điều kiện đặt ra là chủ tài sản bảo đảm được phép giữ lại một phần tiền bán tài sản bảo đảm, phần còn lại do ngân hàng xử lý.

Ông Hùng không tham gia vào việc cho vay đối với hai công ty nêu trên. Kiểm tra hồ sơ, số liệu dư nợ trong hệ thống, ông Hùng nhận thấy, đến thời điểm đó, các khoản nợ của hai công ty đã được xử lý toàn bộ bằng dự phòng tín dụng, đã được chuyển ra theo dõi tại ngoại bảng báo cáo tài chính và thậm chí xóa khỏi ngoại bảng theo quy định pháp luật. Một khi khoản nợ đã được xử lý bằng dự phòng tín dụng thì nếu bán được tài sản bảo đảm, bất cứ khoản tiền nào thu về cũng được coi ngay thành lợi nhuận bất thường. Nghĩ vậy, trên cương vị Giám đốc chi nhánh, ông Hùng đã quyết định cho phép chủ tài sản bảo đảm thực hiện xử lý nợ theo phương án đề xuất.

Tai bay vạ gió ập đến với ông Hùng vài năm sau đó, liên quan đến việc bán tài sản bảo đảm nói trên. Cơ quan điều tra, truy tố cho rằng, ông Hùng đã có sai phạm trong quy định nội bộ và quy định về bán tài sản bảo đảm trong Nghị định số 163 về giao dịch bảo đảm. Từ đó, ông Hùng bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 219, Bộ luật Hình sự về tội danh có tên gọi “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí”.

Câu hỏi đặt ra từ vụ án này là: Tài sản thế chấp có phải là tài sản nhà nước? Quy định về bán tài sản thế chấp có phải quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước?

Câu trả lời là không, nếu như chúng ta xác định chỉ có phần vốn nhà nước sở hữu tại doanh nghiệp mới là tài sản nhà nước. Với nguyên tắc xác định này, một khi số lượng cổ phần mà Nhà nước sở hữu tại ngân hàng của ông Hùng không bị hao hụt, mất mát, thì không có một tài sản nhà nước nào liên quan tới vụ án hình sự nêu trên.

Đồng thời, trách nhiệm quản lý, sử dụng tài sản nhà nước chỉ liên quan đến người được giao đại diện cho Nhà nước quản lý số cổ phần Nhà nước sở hữu tại ngân hàng. Vậy thì chưa nói có sai phạm hay không, việc bán tài sản thế chấp không có bất kỳ mối liên hệ pháp lý nào đến chế độ quản lý tài sản nhà nước tại doanh nghiệp. Không thể phát sinh một vụ án hình sự về tội “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí” từ việc bán tài sản thế chấp.

Còn nếu câu trả lời là có, thì một nghịch lý sẽ gây chấn động cả giới ngân hàng, nhất là tại những ngân hàng mà Nhà nước vẫn còn sở hữu chi phối. Bởi từ đây, bất cứ tài sản nào của ngân hàng cũng là tài sản nhà nước, bất cứ vi phạm quy trình nghiệp vụ nào cũng đều có thể bị coi là vi phạm quy định về quản lý sử dụng tài sản nhà nước.

Vụ án nói trên là một ví dụ điển hình cho sự rủi ro, bất cập phát sinh từ nhận định nhầm lẫn trong xác định đâu là tài sản nhà nước tại doanh nghiệp. 

Thay đổi để phát triển

Đầu tư vốn vào doanh nghiệp, Nhà nước cũng có các quyền lợi bình đẳng như các cổ đông, thành viên khác của doanh nghiệp. Quyền tối thượng của cổ đông là được hưởng lợi tức từ kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và được bảo đảm an toàn đồng vốn đầu tư. Muốn đạt được điều đó, doanh nghiệp lại phải nhờ cậy vào nguồn lực nhân sự của công ty. Không một sự sáng tạo, tận tâm nào của đội ngũ nhân sự có thể xây dựng dựa trên một cơ chế đe dọa trực diện bằng những án tù của ông chủ doanh nghiệp.

Do vậy, nếu như không xác định rõ ràng về giới hạn và phạm vi quản lý liên quan đến tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp, chúng ta không có quyền mong mỏi vào sự cống hiến tận tâm của lực lượng nhân sự tại các doanh nghiệp mà Nhà nước còn sở hữu vốn chi phối.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề