Sự kết hợp của yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự cách kết hợp phương tiện tác dụng lấy ví dụ

I. THỰC HÀNH TÌM HlỂU YẾU TỐ NGHỊ LUẬN TRONG ĐOẠN VĂN TỰ SỰ

Trả lời câu 2 (trang 160 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Trong đoạn văn trên, yếu tố nghị luận thể hiện trong những câu nào? Chỉ ra vai trò của các yếu tố ấy trong việc làm nổi bật nội dung của đoạn văn.

Trả lời:

- Câu chuyện kể về hai người bạn cùng đi trên sa mạc.

- Yếu tố nghị luận chủ yếu được thể hiện:

+ "Những điều viết trên cát sẽ mau chóng xóa nhòa ..."

+ Câu kết: "Vậy mỗi chúng ta hãy học cách viết những nỗi đau buồn, thù hận lên cát và khắc ghi những ân nghĩa lên đá".

- Yếu tố nghị luận này làm cho câu chuyện thêm sâu sắc, giàu tính triết lí và có ý nghĩa giáo dục cao. Bài học rút ra từ câu chuyện này thể nêu bằng nhiều cách khác nhau nhưng chủ yếu vẫn là bài học về bao dung, lòng nhân ái, biết tha thứ và ghi nhớ ân nghĩa, ân tình...

II. THỰC HÀNH VIẾT ĐOẠN VĂN TỰ SỰ CÓ SỬ DỤNG YẾU TỐ NGHỊ LUẬN

Trả lời câu 1 (trang 161 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Viết đoạn văn kể lại buổi sinh hoạt lớp. Trong buổi sinh hoạt lớp, em đã phát biểu ý kiến chứng minh Nam là người bạn rất tốt.

Lời giải chi tiết:

Gợi ý:

a) Buổi sinh hoạt lớp diễn ra như thế nào? (thời gian, địa điểm, ai là người điều khiển, không khí của buổi sinh hoạt lớp ra sao,...).

b) Nội dung của buổi sinh hoạt la gì? Em đã phát biểu về vấn đề gì? Tại sao lại phát biểu về việc đó?

c) Em đã thuyết phục cả lớp rằng Nam là người bạn rất tốt như thế nào? (lý lẽ, ví dụ, lời phân tích).

Bài mẫu:

Em vẫn còn nhớ như in buổi sinh hoạt lớp ngày hôm đó. Không khí lớp học căng thẳng, mọi người có nhiều lời bàn tán về sự việc vừa xảy ra trong giờ ra chơi.

Nguyên nhân là do hai bạn Nam và Thành đã cãi vã, đánh nhau vì Thành cho rằng Nam là người lấy cắp tiền trong cặp sách của mình. Đầu giờ sáng, Thành mang tiền đến lớp để đóng học và có nói chuyện với Nam về khoản tiền bố mẹ đưa cho đó. Mọi ánh mắt đổ dồn về phía Nam, thể hiện thái độ bất bình và rất nhiều người đã lên tiếng kết tội: một người, hai người, rồi ba người... cứ thế, Nam cúi đầu im lặng nghe mọi người phán xét mà không tìm được lí do minh oan.

Trước tình hình lớp học như vậy, cô giáo đã yêu cầu cả lớp trật tự và hỏi Nam về chuyện vừa xảy ra. Nam khẳng định mình không làm việc đó, ánh mắt Nam thật tội nghiệp. Em đã đứng dậy và nói với cô giáo: "Nam là người bạn tốt, em đã học cùng Nam suốt 9 năm học và khẳng định Nam không thể làm chuyện đó". Em đã đưa ra các lí do để chứng minh Nam không phải là người có lỗi. Tâm trạng của em lúc đó thật xúc động, emtự trấn an mình: Hãy bình tĩnh, bởi lẽ mình đang bảo vệ cho lẽ phải, đang minh oan cho một người tốt thì không có gì run phải sợ". Em bắt đầu lập luận:

Thứ nhất, Nam là người bạn rất tốt bụng. Thậm chí, Nam còn dành dụm tiền ăn sáng của mình để đóng góp cho quỹ từ thiện của trường. Nam luôn sẵn lòng giúp đỡ những bạn có hoàn cảnh khó khăn trong lớp.

Thứ hai, Thành vội vàng kết tội bạn Nam chỉ vì nghĩ rằng Nam biết về khoản tiền đó của mình mà không có bằng chứng. Điều đó đã khiến mọi người trong lớp hiểu lầm Nam.

Thứ ba, Thành nên tìm kĩ lại khoản tiền đó, xem có sơ suất làm rơi hoặc có thể hỏi mọi người trong lớp xem có ai nhìn thấy người lạ vào lớp không.

Sau những ý kiến của em, mọi người yêu cầu Thành cẩn thận tìm lại trong cặp sách và khoản tiền đóng học của Thành đã rơi ra từ một cuốn sách.

Cả lớp thở phào nhẹ nhõm, Nam nhìn em với ánh mắt biết ơn đầy xúc động. Câu chuyện dù đã xảy ra rất lâu nhưng nhắc nhở em rằng, khi phán xét một ai chúng ta cần suy nghĩ cân nhắc để tránh gây ra những hiểu lầm đáng tiếc.

Trả lời câu 2 (trang 161 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Viết đoạn văn kể lại những việc làm hoặc những lời dạy bảo giản dị mà sâu sắc của người bà kính yêu.

Lời giải chi tiết:

Gợi ý:

a) Người em kể là ai?

b) Người đó đã để lại một việc làm, lời nói hay một suy nghĩ? Điều đó diễn ra trong hoàn cảnh nào?

c) Nội dung cụ thể là gì? Nội dung đó giản dị mà sâu sắc, cảm động như thế nào?

d) Suy nghĩ về bài học rút ra từ câu chuyện trên.

Bài mẫu:

Bà em năm nay đã già, mắt bà đã mờ và đôi chân yếu đi rất nhiều. Với em, bà là người thầy lớn, dạy em những điều hay lẽ phải trong cuộc đời. Mỗi lần trở về quê hương, em hạnh phúc khi nắm bàn tay hao gầy nhưng tràn đầy hơi ấm của bà, lắng nghe những câu chuyện bà kể. Những câu chuyện của bà đều giúp em trưởng thành hơn trong cuộc sống. Bài học khiến em nhớ nhất đó là tấm lòng nhân ái và biết sẻ chia với mọi người mà bà đã dạy.

Từ thuở bé, em thích nhất khi được trở về khu vườn của bà nơi đầy ắp những trái cây ngon nhưng bà chẳng bao giờ bán mà thường để dành khi chín, chia cho những đứa trẻ quanh nhà. Em thắc mắc tại sao bà không bán lấy tiền, bà cười hiền hậu và nói: Những đứa trẻ đó nhà chúng nghèo lắm cháu ạ, nhà nghèo nên chúng chẳng được ăn những trái cây ngon bao giờ. Chia sẻ với người khác là nhân thêm niềm vui cho mình. Trong cuộc sống, ai cũng có những lúc khó khăn, hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau. Không những vậy, bà còn dạy chữ cho những đứa trẻ nghèo ven đê không được đến lớp. Ngôi nhà nhỏ của bà vì vậy lúc nào cũng rộn tiếng cười nói trẻ thơ. Em nghe theo lời bà dạy, đã xin những bộ sách cũ của những người bạn học từ thành phố về để chia cho những người bạn nơi làng quê. Các bạn rất quý em và thường rủ em đi chơi quanh làng sau những buổi chiều tan học.

Và chính từ tấm lòng nhân ái của bà mà ngôi làng như xích lại gần nhau hơn, mọi người chia sẻ cho nhau từ những điều giản dị, đôi khi là củ khoai, củ sắn trồng được hay giúp đỡ nhau mỗi khi gia đình nhà ai có chuyện khó khăn. Mọi người sống với nhau như những người họ hàng thân thiết và em thấy được giá trị của lòng nhân ái qua hành động nhỏ của bà.

Vào những đêm trăng sáng, bà còn thường kể em nghe những câu chuyện cổ tích, về sự tham lam của người anh trong truyện Cây khế đã phải giá bằng tính mạng của mình, về lão phú ông trong truyện cổ tích Cây tre trăm đốt chỉ biết làm giàu cho mình từ sức lao động của anh Khoai nên cuối cùng mới bị anh Khoai trả đũa. Lòng nhân ái, biết sẻ chia của con người sẽ khiến cuộc sống bớt đi những khổ đau, khiến mọi người gần lại với nhau hơn và chan chứa tình người.

Bài học từ thuở bé nhưng mãi là hành trang theo em bước vào đời, em luôn ghi nhớ lời dạy sâu sắc bà dạy để đối xử với mọi người quanh mình, để nhận lại được những nụ cười và hạnh phúc đầy ấm áp. Người với người sống để yêu nhau, bởi "sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình".

Sự kết hợp của yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự cách kết hợp phương tiện tác dụng lấy ví dụ
Ảnh minh họa (Nguồn internet)

Nghị luận là cơ sở của tư duy lô gíc khoa học. Đặc trưng của nghị luận là sự chặt chẽ, rõ ràng và có sức thuyết phục cao. Mặc dù có những điểm khác nhau như thế nhưng nghị luận vẫn xuất hiện trong các văn bản tự sự. Có thể nói trong tự sự gần như có tất cả các phương thức biểu đạt vì tự sự chính là bức tranh gần gũi với cuộc sống. Trong văn bản tự thì nghị luận chỉ là yếu tố đan xen “”thấp thoáng”” cốt để làm nổi bật sự việc và con người. Để hiểu được điều này chúng ta cùng tìm hiểu bài học trong chương trình Ngữ văn lớp 9: “Nghị luận trong văn bản tự sự”. Mời các bạn tham khảo một số bài soạn hay nhất mà lingocard.vn đã tổng hợp trong bài viết dưới đây để chuẩn bị tốt nội dung tiết học.

Đang xem: Khái niệm nghị luận trong văn bản tự sự

123456
1 0
2
0

I. TÌM HIỂU YẾU TỐ NGHỊ LUẬN TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ

Câu 2 trang 137 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Suy nghĩ và thực hiện các yêu cầu sau:

a) Nghị luận là nêu lí lẽ, dẫn chứng để bảo vệ một quan điểm, tư tưởng (luận điểm) nào đó.Căn cứ vào định nghĩa này, hãy tìm và chỉ ra những câu, chữ thể hiện rõ tính chất nghị luận trong hai đoạn trích trên.b) Từ việc tìm hiểu hai đoạn trích, hãy trao đổi trong nhóm để hiểu nội dung và vai trò của yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự. Yếu tố nghị luận đã làm cho đoạn văn sâu sắc như thế nào?(Gợi ý : Để thực hiện các yêu cầu trên, cần chú ý mấy điểm sau:– Trong mỗi đoạn trích, nhân vật nêu ra những luận điểm gì?– Để làm rõ luận điểm đó, người nói đã đưa ra luận cứ gì và lập luận như thế nào?– Các câu văn trong đoạn trích trên thường là loại câu gì? (miêu tả, trần thuật, khẳng định, phủ định, câu ghép có cặp từ hô ứng: nếu…thì; không những…mà còn; càng…càng; vì thế…cho nên…)– Các từ lập luận thường được dùng ở đây là gì? (tại sao, thật vậy, trước hết, sau cùng, nói chung, tóm lại, tuy nhiên,…)

Trả lời:

a. Những câu, chữ thể hiện rõ tính chất nghị luận trong đoạn trích truyện Lão Hạc:

– Nêu vấn đề: nếu không cố để hiểu những người xung quanh thì ta luôn có cớ để tàn nhẫn và độc ác đối với họ.

– Phát triển vấn đề:

+ vợ tôi không ác nhưng khổ quá.

+ khi người ta đau chân thì không còn không nghĩ đến ai được nữa.

+ cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp.

– Kết thúc vấn đề: Tôi biết vậy nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận.

Tóm lại: Đoạn văn nghị luận trên góp phần giúp người đọc hiểu rõ tính cách của nhân vật ông giáo (một người trí thức, thông cảm và thấu hiểu người nông dân), đồng thời làm sâu sắc thêm chủ đề của truyện ngắn Lão Hạc

* Những câu, chữ thể hiện rõ tính chất nghị luận trong đoạn trích Thuý Kiều báo ân báo oán:

– Lập luận của Thuý Kiều:

+ Xưa nay đàn bà có mấy người ghê gớm, cay nghiệt như mụ (Hoạn Thư)

+ Càng cay nghiệt thì càng chuốc lấy oan trái.

– Lập luận của Hoạn Thư:

+ Tôi là đàn bà, chuyện ghen tuông là chuyện bình thường.

+ Ngoài ra tôi đã đối xử tốt với cô khi ở gác viết kinh; khi cô trốn khỏi nhà, tôi cũng chẳng đuổi theo.

+ Tôi với cô có chồng chung, chưa dễ ai nhường cho ai.

+ Nhưng dù sao tôi cũng gây nên tội với cô, bây giờ chỉ trông mong vào sự độ lượng của cô.

Ta thấy: Lập luận sắc sảo của cả Kiều và Hoạn Thư cho người đọc rõ hơn tính cách 2 nhân vật, đồng thời học còn phải suy ngẫm về lẽ ứng xử ở đời.

b. Vai trò của yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự nói chung: tăng thêm chiều sâu cho tác phẩm, góp phần thể hiện rõ nét tính cách nhân vật và tạo sự lôi cuốn đối với người đọc.

Ghi nhớ:

Trong văn bản tự sự, để người đọc (người nghe) phải suy nghĩ về một vấn đề nào đó, người viết (người kể) và nhân vật có khi nghị luận bằng cách nêu lên các ý kiến nhận xét, cùng những kí lẽ và dẫn chứng. Nội dung đó thường được diễn đạt bằng hình thức lập luận, làm cho câu chuyện thêm phần triết lí.

II. LUYỆN TẬP

Câu 1 trang 139 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Lời văn trong đoạn trích Lão Hạc ở mục I.1 là lời của ai? Người ấy đang thuyết phục ai? Thuyết phục điều gì?

Trả lời:

Ông giáo đối thoại với chính mình, thuyết phục chính mình rằng vợ mình không ác để chỉ buồn chứ không nỡ giận. Không những thế, ông giáo còn thuyết phục bạn đọc, thuyết phục mọi người cố gắng tìm hiểu những người xung quanh để cảm thông và yêu thương họ.

Câu 2 trang 139 SGK Ngữ văn 9 tập 1: Ở đoạn trích (b) mục I.1, Hoạn Thư đã lập luận như thế nào mà nàng Kiều phải khen rằng: Khôn ngoan đến mực, mói năng phải lời? Hãy tóm tắt các nội dung lí lẽ trong lời lập luận của Hoạn Thư để làm sáng tỏ lời khen của nàng Kiều.Trả lời:Nàng Kiều đã khen Hoạn Thư là “Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời” sau khi nghe Hoạn Thư kêu ca chạy tội. Những lời lập luận của Hoạn Thư đã thể hiện rõ điều đó:

– Tôi là đàn bà, chuyện ghen tuông là chuyện bình thường.

– Ngoài ra tôi đã đối xử tốt với cô khi ở gác viết kinh; khi cô trốn khỏi nhà, tôi cũng chẳng đuổi theo.

– Tôi với cô có chồng chung, chưa dễ ai nhường cho ai.

– Nhưng dù sao tôi cũng gây nên tội với cô, bây giờ chỉ trông mong vào sự độ lượng của cô

A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

Câu 1. Tìm hiểu yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự

1. Đọc các đoạn trích sau:a. Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thương… Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất. Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận.

(Nam Cao, Lão Hạc)

b.

Thoắt trông nàng đã chào thưa:

“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!

Đàn bà dễ có mấy tay,

Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!

Dễ dàng là thói hồng nhan,

Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”

Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,

Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca.

Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.

Nghĩ cho khi gác viết kinh,

Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.

Lòng riêng riêng những kính yêu,

Chồng chung chưa dễ ai nhường cho ai.

Trót lòng gây việc chông gai,

Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”.

Khen cho: “Thật đã nên rằng,

Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời.

Tha ra, thì cũng may đời,

Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.”

(Nguyễn Du, Truyện Kiều)

Câu 2. Suy nghĩ và thực hiện các yêu cầu sau:

a. Nghị luận là nêu lí lẽ, dẫn chứng để bảo vệ một quan điểm, tư tưởng (luận điểm) nào đó.Căn cứ vào định nghĩa này, hãy tìm và chỉ ra những câu, chữ thể hiện rõ tính chất nghị luận trong hai đoạn trích trên.b. Từ việc tìm hiểu hai đoạn trích, hãy trao đổi trong nhóm để hiểu nội dung và vai trò của yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự nói chung. Yếu tố nghị luận có thể làm cho văn bản tự sự thêm sâu sắc như thế nào?(Gợi ý: Để thực hiện các yêu cầu trên, cần chú ý mấy điểm sau:

Trong mỗi đoạn trích, nhân vật nêu ra những luận điểm gì?Để làm rõ luận điểm đó, người nói đã đưa ra luận cứ gì và lập luận như thế nào?Các câu văn trong văn bản tự sự thường là loại câu gì? (miêu tả, trần thuật, khẳng định, phủ định, câu ghcp có cặp từ hô ứng: nếu … thì; không những… mà còn; cùng… càng; vì thế… cho nên…)Các từ ngữ thường được dùng để lập luận trong văn bản tự sự là những từ ngữ nào? (tại sao, thật vậy, trước hết, sau cùng, nói chung, tóm lại, tuy nhiên,…)Trả lời:

a. Đoạn trích (a) “Lão Hạc”

Nếu ta không cố tình hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện…Vợ mình không ác nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình.Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa.Mình biết vậy nên mình chỉ buồn nhưng không nỡ giận.Đoạn thơ (b) lập luận trong đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán, là lí lẽ của Hoạn Thư. Đây là người đàn bà khôn ngoan, sắc sảo nên những lí lẽ của Hoạn Thư đưa ra rất hợp tình hợp lí như sau:

Ghen tuông là lẽ thường tình ở phụ nữ.Kể nể những lần Hoạn Thư tha bổng cho Thúy Kiều làm cho Thúy Kiều mang ơn mình.Chồng chung nên có những hờn ghen là tất yếu.Xin được giảm án.b. Dấu hiệu và đặc điểm của lập luận trong văn bản tự sự

Lập luận trong văn bản tự sự là những cuộc đối thoại. Với các nhận xét hoặc phán đoán nhằm thuyết phục người đọc, người ngheTrong đoạn văn lập luận người ta thường dùng các câu phủ định, khẳng định, câu có mệnh đề hô ứng: nếu … thì .. và các từ lập luận.

2. Ghi nhớ

Trong văn bản tự sự, để người đọc (người nghe) phải suy nghĩ về một vấn đề nào đó, người viết (người kể) và nhân vật có khi nghị luận bằng cách nêu lên các ý kiến, nhận xét, cùng những lí lẽ và dẫn chứng. Nội dung đó thường được diễn đạt bằng hình thức lập luận, làm cho câu chuyện thêm phần triết lí.

Xem thêm: Đồ Án Chưng Cất Dầu Thô Sử Dụng Để Thiết Kế Bản Vẽ Pfd P Id, Đồ Án Tốt Nghiệp Chưng Cất Dầu Thô

B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI

Câu 1: (Trang 139 – SGK Ngữ văn 9) Lời văn trong đoạn trích “Lão Hạc” ở mục 1.1 là lời của ai? Người ấy đang thuyết phục ai? Thuyết phục điều gì?

Bài làm:Nghị luận là nêu lí lẽ, dẫn chứng để bảo vệ một quan điểm, tư tưởng (luận điểm) nào đó.Lời văn trong đoạn trích (a), mục là lời của nhân vật ông Giáo đang cố thuyết phục chính những độc giả của câu chuyệnÔng Giáo đang thuyết phục người đọc để cảm thông cho người vợ của mình, bởi thị không ác mà do hoàn cảnh sống quá đói nghèo, cơ cực nên thị phải khép mình với những người xung quanh, bản chất tốt đẹp thì bị những lo lắng của đời sống che lấp. Qua đó, ông Giáo đang thuyết phục với những người xung quanh, hãy biết quan tâm và để ý đến mọi người xung quanh, hãy cố tìm hiểu để thấy được bản chất tốt đẹp của họ.

Câu 2: (Trang 139 – SGK Ngữ văn 9) Ở đoạn trích (b) mục 1.1, Hoạn Thư đã lập luận như thế nào mà nàng Kiều phải khen rằng: “Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời”? Hãy tóm tắt các nội dung lí lẽ trong lời lập luận của Hoạn Thư để làm sáng tỏ lời khen của nàng KiềuBài làm:Trong khung cảnh đối diện với Thúy Kiều, Hoạn Thư đã rất bình tĩnh đưa ra những lập luận, lí lẽ để biện minh cho bản thân mình. Lập luận của Hoạn Thư rất chặt chẽ, vừa có lí, vừa có tình, vừa nhận tội Vừa bào chữa, vừa đề cao người, lại vừa minh oan cho mình.Trước hết, Hoạn Thư đưa ra giải thích sự ghen tuông là tâm lý chung của đàn bà, để mong Kiều thấy đó là lẽ thường tình mà người phụ nữ nào cũng đều thấu hiểu. Sau đó, Hoạn Thư kín đáo kể công đã chạnh lòng thương xót mà cho Kiều ra chép kinh ở Quan Âm Các: Nghĩ cho khi gác viết kinh và dẫu biết mà không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn: Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo. Tiếp theo, Hoạn Thư bày tỏ nỗi lòng, chồng chung nên những hờn ghen là tất yếu, đều là cảnh chồng chung nên chẳng thể nhường nhau được. Sắc sảo và khôn ngoan hơn, cuối cùng Hoạn Thư nhận hết tội lỗi về mình và xin Kiều khoan dung. Trước những lời lẽ của Hoạn Thư, Kiều phải thừa nhận rằng ả “Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời” và đã chấp nhận tha cho Hoạn Thư.Thông qua những lời lẽ biện minh, lập luận chặt chẽ của Hoạn Thư, Nguyễn Du đã tô đậm tính cách của nhân vật, làm cho nội dung tự sự trở nên mạch lạc, khúc chiết.

Kiến thức cơ bản

– Trong văn tự sự để người nghe, người đọc suy nghĩ về một vấn đề nào đó, người viết, người kể và nhân vật có khi nghị luận bằng cách nêu lên các nhận xét, phán đoán, các lí lẽ, dẫn chứng. Nội dung đó thường diễn đạt bằng các hình thức lập luận, làm cho câu chuyện thêm phần triết lí.

– Trong đoạn nghị luận, người viết ít dùng câu miêu tả trần thuật mà dùng nhiều câu khẳng định, có các quan hệ từ: nếu – thì, không những – mà còn…

Hướng dẫn trả lời câu hỏi SGK

Câu 1 & 2 – Trang 138/139 SGK

Đọc các đoạn trích <...>, suy nghĩ và thực hiện các yêu cầu

Trả lời

a) Những câu chữ mang tính chất nghị luận:

– Đoạn văn của Nam Cao + Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiếu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thường…

+ Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa.

– Đoạn thơ của Nguyễn Du

+ Rằng: tôi chút phận đàn bàGhen tuông thì cũng người ta thường tình.

+ Dễ dàng là thói hồng nhanCàng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.

+ Lòng riêng riêng những kính yêuChồng chung chưa dễ ai chiều cho ai!

+ Trót lòng gây việc chông gaiCòn nhờ lượng bá thương bài nào chăng…

b) Vai trò của yếu tố nghị luận trong từng ví dụ:

* Trong đoạn trích của Nam Cao, ông giáo đã đưa ra các luận điểm và lập luận theo lô-gíc sau:

– Nêu vấn đề: Nếu ta không cố tìm mà hiểu những người xung quanh thì ta luôn có cớ để tàn nhẫn và độc ác với họ.

– Phát triển vấn đề: Vợ tôi không ác, nhưng sở dĩ họ trở nên ích kỉ, tàn nhẫn là vì thị đã quá khổ. Vì sao vậy?

+ Khi người ta đau chân thì chỉ nghĩ đến cái chân đau (từ một quy luật tự nhiên).

+ Khi người ta khổ quá thì người ta không còn nghĩ đến ai được nữa (như một quy luật tự nhiên trên mà thôi).

+ Vì cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất.

– Kết thúc vấn đề: “Tôi biết vậy nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận”.

Về hình thức đoạn văn trên chứa rất nhiều từ, câu mang tính nghị luận. Đó là các cầu hô ứng thể hiện các phán đoán dưới dạng nếu… thì; vì thế… cho nên, sở dĩ… là vì, khi A… thì B… Các câu văn khẳng định, ngắn gọn khúc chiết.

* Đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán dùng hình thức nghị luận:

Lập luận của Kiều thể hiện ở mấy câu đầu. Sau câu chào mỉa mai là lời đay nghiến: xưa nay đàn bà có mấy người ghê gớm cay nghiệt như mụ và xưa nay, càng cay nghiệt thì càng chuốc lấy oan trái.

Lập luận của Hoạn Thư nêu lên đến 4 luận điểm:

– Thứ nhất: Tôi là đàn bà nên ghen tuông là chuyện thường tình (nêu một lí lẽ thường tình).

– Thứ hai: Ngoài ra tôi cũng đã đối xử rất tốt với cô khi ở gác viết kinh; khi cô trốn khỏi nhà, tôi cũng chẳng đuổi theo (kể Công).

– Thứ ba: Tôi với cô cùng trong cảnh chồng chung – chắc gì ai nhường cho ai.

– Thứ tư: Nhưng dù sao tôi cũng đã trót gây đau khổ cho cô nên bây giờ chỉ biết trông nhờ vào lượng khoan dung rộng lớn của cô (nhận tội, đề cao tâng bốc Kiều).

Với lập luận như trên, Kiều phải công nhận tài của Hoạn Thư là “Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời”. Và cũng chính nhờ lập luận ấy mà Hoạn Thư đã được Thúy Kiều tha bổng.

Qua đó ta thấy nghị luận trong văn bản tự sự giúp cho văn bản thêm phần triết lí.

Luyện tập

1 – Trang 139 SGK

Lời văn trong đoạn trước (a), mục I.1 là lời của ai? Người ấy đang thuyết phục au? Thuyết phục điều gì?

Trả lời

Đoạn văn trích trong truyện ngắn Lão Hạc là lời của ông giáo đang tự nói với mình cũng là nói với những người xung quanh, nói với người đọc người nghe. Ông giáo muốn thuyết phục mọi người hãy biết quan tâm đến những người xung quanh.

I.Tìm hiểu yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự

1. Câu 1 (trang 137 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Đọc các đoạn văn.

2. Câu 2 (trang 137 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

a. Đoạn (a) : Đoạn trích “Lão Hạc” :

…nếu ta không cố tình hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa.

Đoạn (b) : Lập luận trong đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán.

Lập luận của Kiều là những lời mỉa mai đay nghiến (xưa nay đàn bà ghê gớm, cay nghiệt càng chuốc nhiều oan trái) : “Đàn bà dễ có mấy tay,

Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan !

Dễ dàng là thói hồng nhan,

Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.”

Lập luận của Hoạn Thư :chuyển từ tội hại người thành tội ghen tuông thường tình, từng tha khi Kiều chạy trốn,… nhận lỗi, xin sự rộng lượng khoan hồng : “ Rằng : “Tôi chút phận đàn bà

Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”

b. Nội dung và vai trò yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự : Làm nội dung tự sự mạch lạc, khúc chiết. Tăng tính triết lí cho câu chuyện, tô đậm tính cách nhân vật.

II.Luyện tập Nghị luận trong văn bản tự sự

1. Câu 1 (trang 139 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Lời văn trong đoạn trích (a), mục I.1 là lời của ông giáo. Ông giáo đang thuyết phục chính mình rằng vợ ông không ác để “chỉ buồn chứ không nỡ giận”.

Xem thêm: Tổng Hợp Đồ Án Tốt Nghiệp Công Nghệ Thông Tin Được Chọn Lựa Hay Nhất

2. Câu 1 (trang 139 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Trình tự lập luận của Hoạn Thư :

Phận đàn bà, ghen tuông thường tình : xóa sự đối lập trở thành người cùng cảnh ngộ “phận đàn bà”, tôi lớn (hại người) chỉ còn là tội ghen tuông ai cũng có. Từ tội nhân trở thành nạn nhân của chế độ đa thê (chồng chung). Kể công từng tha cho Kiều khi Kiều chạy trốn. Cuối cùng nhận lỗi và cầu mong sự rộng lượng.

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Luận văn