Sau khi chiến thắng quân Thanh vua Quang Trung đóng đô ở đâu

Sau cái chết của Nguyễn Văn Duệ và sau đó là Vũ Văn Nhậm và diễn biến chiến trường Nam Bộ, vua Thái Đức [Nguyễn Nhạc] đã tỏ ra buông xuôi. Không thể kìm chế người em tài ba hơn mình, cuối năm 1788, ông từ bỏ đế hiệu và niên hiệu Thái Đức, chỉ xưng là "Tây Sơn vương". Ông viết thư cho Nguyễn Huệ, chỉ xin giữ Quy Nhơn và nhường toàn bộ binh quyền, đất đai trong cả nước cho vua em; đồng thời ông cầu khẩn Nguyễn Huệ mang gấp đại binh vào cứu Nam bộ [chiếu lên ngôi của Quang Trung nói rõ vấn đề này].

Tuy nhiên lúc đó Nguyễn Huệ dù biết lời cầu khẩn của anh nhưng không thể vào nam tham chiến vì 20 vạn quân Thanh do Lê Chiêu Thống rước về đã vượt qua biên giới. Nguy cơ phía bắc rõ ràng lớn và gấp hơn nên Nguyễn Huệ đã lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung rồi kéo quân ra bắc và đã nhanh chóng đánh bại quân Thanh.

Sau khi đánh bại quân Thanh, Quang Trung trở thành nhà lãnh đạo tối cao của triều Tây Sơn và là vị Hoàng đế duy nhất cai trị tại Việt Nam [Nguyễn Nhạc đã bỏ đế hiệu, Lê Chiêu Thống đã chạy sang Trung Quốc, còn Nguyễn Ánh khi đó địa bàn còn nhỏ hẹp và chưa xưng đế]. Tình hình với Quang Trung rất thuận lợi: ông có được uy tín lớn sau chiến công chống quân Thanh, được nhà Thanh công nhận là vị vua chính thống của Việt Nam [thay thế địa vị của nhà Hậu Lê], lại dẹp bỏ được mâu thuẫn trong nội bộ nhà Tây Sơn và nắm quyền lãnh đạo thống nhất [vua anh Nguyễn Nhạc đã bỏ đế hiệu, tự giáng xuống làm vương để tỏ ý quy phục sự lãnh đạo của ông].

Trên cơ sở đó, Quang Trung đã lập ra các chiến lược rất lớn nhằm triệt để đánh bại các thế lực đối địch còn lại để thống nhất đất nước. Sự nghiệp thống nhất đất nước, sáng lập một triều đại mới đã đến rất gần.

Đối nội, đối ngoại

Ngay sau chiến thắng Kỷ Dậu, Quang Trung vội trở lại Phú Xuân để đề phòng Nguyễn Ánh, trao lại binh quyền cho Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm.

Một mặt lo chống thù trong giặc ngoài, mặt khác vua Quang Trung rất quan tâm tới việc xây dựng đất nước. Vua khuyến khích người hiền tài ra giúp nước, phân phối đất đai cho những người nông dân nghèo, thúc đẩy thủ công nghiệp từng bị cấm trước kia, cho phép tự do tôn giáo, mở cửa Việt Nam với ngoại thương quốc tế và bỏ chữ Hán như là chữ viết chính thức. Chọn chữ viết chính thức của các khu vực Nguyễn Huệ cai trị là chữ Nôm.

Sau chiến thắng quân Thanh, Quang Trung quyết định dựng nghiệp lớn, việc đầu tiên là thành lập một kinh đô. Ông chọn đất Nghệ An để lập Trung Đô, tức Phượng Hoàng Trung Đô. Hoàng Xuân Hãn viết: “Có thể tin chắc rằng Phượng Hoàng trung đô ở khoảng giữa núi Mèo [núi Kỳ Lân] và núi Quyết. Địa thế thành rất dễ giữ. Phía trước có sông Cồn Mộc và sông Lam, phía bên có núi Quyết, đều là hào và thành thiên nhiên. Ở giữa thành, còn dấu thành trong, và nền nhà. Nhất là có nền cao ba bậc ở phần bắc, mà ngày sau, đời Nguyễn dùng làm nền xã tắc. Chắc đó là chỗ Quang Trung ngự triều trong khi tạm nghỉ ở Nghệ An."

Về ngoại giao, ngay từ trước khi giao chiến với quân Thanh, Quang Trung đã tính đến chiến lược ngoại giao với nhà Thanh. Theo phương lược vạch sẵn, với tài ngoại giao khéo léo của Ngô Thì Nhậm, Tây Sơn nhanh chóng bình thường hóa bang giao với nhà Thanh. Vua Thanh Càn Long đã cho sứ giả vào tận Phú Xuân để phong vương cho Nguyễn Huệ; rồi hoàng đế Quang Trung giả đã sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi của vua Càn Long nhà Thanh.

Việc nhà Thanh công nhận nhà Tây Sơn khiến Lê Duy Kỳ [Chiêu Thống] phải uất hận chết ở Trung Quốc cuối năm 1792.

Dẹp Lê Duy Chi, tấn công Vạn Tượng

Quân Thanh, lực lượng cứu trợ cho nhà Lê bị đánh tan nhưng các lực lượng thân nhà Lê vẫn tiếp tục hoạt động ở phía bắc khiến vua Quang Trung tiếp tục phải đánh dẹp. Em Lê Duy Kỳ là Lê Duy Chi được sự hợp tác của các tù trưởng Hoàng Văn Đồng, Nông Phúc Tấn đẩy mạnh hoạt động ở Cao Bằng, Tuyên Quang. Duy Chi tìm cách liên kết với các tù trưởng người Vạn Tượng [vương quốc Viêng Chăn thời vua [Chao] Nanthasen [tức Chiêu Nan] và vua [Chao] Intharavong Setthathirath III [tức Chiêu Ấn]] để chống Tây Sơn. Nước Xiêm La khi đó cũng muốn trả thù Tây Sơn sau Trận Rạch Gầm - Xoài Mút nên tìm cách khống chế nước Vạn Tượng và tràn sang tác động tới các tù trưởng người Việt ở Trấn Ninh, Quy Hợp xứ Nghệ An và liên lạc với cựu thần nhà Lê là Trần Phương Bính. Mặt khác, Xiêm La cũng liên lạc với Nguyễn Ánh ở Gia Định để cùng Duy Chi tổ chức tấn công Tây Sơn. Theo kế hoạch này, quân Duy Chi sẽ đánh xuống từ Cao Bằng, Nguyễn Ánh đánh lên từ Gia Định, còn quân Vạn Tượng và Xiêm sẽ đánh vào Thanh Hóa, Nghệ An.

Đứng trước nguy cơ bị tấn công từ ba mặt, sau khi thực hiện thành công việc bang giao với nhà Thanh, đầu năm 1791, Quang Trung tập trung đối phó với Lê Duy Chi và quân Vạn Tượng – Xiêm. Ông sai sứ sang Trấn Ninh, Quy Hợp để thăm dò tình hình nhưng bị vua Vạn Tượng bắt giữ và nộp cho Xiêm La. Xiêm La sai sứ mang cờ và trống của Tây Sơn vào Gia Định cho Nguyễn Ánh để khuyến khích Ánh ra quân.

Quang Trung quyết định ra quân. Ông sai hoàng tử Nguyễn Quang Thùy đang trấn thủ Thăng Long cùng các tướng Bắc Hà mang quân đánh Lê Duy Chi; sai Trần Quang Diệu và Lê Trung mang quân đánh Trấn Ninh, Quy Hợp. Quang Thùy đánh lên Cao Bằng nhanh chóng đánh bại và bắt được cả Lê Duy Chi, Hoàng Văn Đồng và Nông Phúc Tấn mang về Thăng Long xử tử.

Ở phía tây, Trần Quang Diệu cũng nhanh chóng diệt được Trần Phương Bính ở ven núi Hồng Lĩnh. Tới tháng 6 năm 1791, Quang Diệu mang 3 vạn quân sang Trấn Ninh bắt được các tù trưởng thiệu Kiểu, thiệu Đế. Tháng 8 năm đó, Quang Diệu đánh bại Quy Hợp. Tháng 10, quân Tây Sơn tiến sang Vạn Tượng. Vua Vạn Tượng là Chao Nan [Chao Nanthasen] không chống nổi phải bỏ trốn sang Xiêm. Quang Diệu tiến vào Viên-chăn đến tận biên giới Xiêm, các tướng Vạn Tượng là tả phan Dung, hữu phan Siêu tử trận. Tháng 10/1791, Tây Sơn chiếm xong Vạn Tượng.

Nguyễn Ánh ở Gia Định không dám ra quân. Chân Lạp là đồng minh của Tây Sơn cũng chuẩn bị lực lượng để phối hợp nếu quân Tây Sơn vượt biên giới Vạn Tượng tiến vào Xiêm hoặc Gia Định khiến các giáo sĩ ở Gia Định lo sợ, chuẩn bị tìm đường chạy. Nhưng Trần Quang Diệu đi đánh xa lâu ngày, được lệnh rút về.

Đầu năm 1792, quân Tây Sơn trở về Đại Việt. Không lâu sau, lực lượng phù Lê của Trần Quang Châu ở Kinh Bắc cũng bị tiêu diệt.

Giữa năm 1792, Quang Trung đã gửi thư đến Càn Long cầu hôn một nàng công chúa Thanh triều và "xin" hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây. Ông cũng sai đô đốc Vũ Văn Dũng làm chánh sứ sang triều kiến vua Càn Long. Tuy nhiên, dự định không thực hiện được vì cái chết đột ngột và bí ẩn của ông. [Xem bài viết về Nguyễn Huệ]

Dự định chinh phục Gia Định, thống nhất đất nước

Việc Quang Trung chiếm Vạn Tượng chỉ trong mấy tháng đã làm rung động cả ba thế lực là Xiêm - Cao Miên và Nguyễn Ánh. Tháng 4/1792, vua Xiêm viết thư đề nghị Nnguyễn Ánh chung sức chống Tây Sơn, nhưng nhân tiện lại đòi Nguyễn Ánh cắt đất Long Xuyên, Kiên Giang và Ba Xắc để làm điều kiện. Nguyễn Ánh trả lời là không nhường đất, nhưng chấp nhận đề nghị của vua Xiêm là hợp lực đánh Tây Sơn. Thư trả lời của Nguyễn Ánh có viết: "Vương [vua Xiêm] thì đem trọng binh đánh Nghệ An. Giặc giữ Nghệ An thì vương đánh ngả trước, quả nhân [chỉ Nguyễn Ánh] đánh ngả sau; nếu giặc giữ Phú Xuân thì vương quấy rối ở ngả sau, quả nhân đánh ngả trước, đầu đuôi giáp đánh thì giặc không còn đi đâu được nữa"

Sau khi Nguyễn Ánh tấn công chớp nhoáng tiêu diệt thuỷ quân của Nguyễn Nhạc ở Thị Nại tháng 7-8/1792, Quang Trung quyết định thực hiện một chiến dịch lớn nhằm tiêu diệt tận gốc thế lực của Nguyễn Ánh. Ông truyền hịch cho dân hai miền Quảng Ngãi và Quy Nhơn, trước khi hành quân để đánh vào Gia Định.

kế hoạch của vua Quang Trung là: điều động 20 - 30 mươi vạn quân thuỷ bộ; bộ binh theo đường núi qua Lào đánh xuống Cao Miên, chiếm mặt sau Sài Gòn; thuỷ binh vào cửa bể Hà Tiên đánh lên Long Xuyên, Kiên Giang, chiếm mặt trước Sài Gòn. Kẹp quân Nguyễn Ánh vào giữa để bao vây tiêu diệt, không để cho đối phương có đường trốn thoát.

Trong lúc tình hình hết sức khẩn cấp, Bá Đa Lộc và những sĩ quan Pháp trong quân Nguyễn Ánh liệu thế không chống đỡ nổi Quang Trung, tính chuyện bỏ trốn. Trong thư gửi cho M. Létondal ngày 14/9/1791, giám mục Bá Đa Lộc viết: “… Nhà vua đã không biết lợi dụng cơ hội mà ông ta có được để đánh bại kẻ thù, mà lại để chúng có thì giờ hoàn hồn và chúng thấy rõ tất cả những đồn đại về việc người Âu đến giúp chỉ là chuyện hão. Ông ta [Nguyễn Ánh] bắt dân đóng thuế và làm dịch vụ nặng nề, và lúc này, dân chúng bị nạn đói đe dọa nên họ có vẻ mong quân Tây Sơn đến. Trong tình trạng hiện thời, nếu chúng quả quyết đến tấn công, thì nhà vua khó có thể đương đầu lại đầu được... Tôi rất sợ không đi kịp trước khi tai họa xẩy ra cho nhà vua, nếu có sự ấy."

Kế hoạch đang chuẩn bị thì ngày 16/9/1792, vua Quang Trung băng hà.

Kỷ niệm 210 năm [1.10.1788-1998] Phượng Hoàng Trung Đô - TP. Vinh:

Tháng chín năm 1998 có dịp ghé lại TP. Vinh, chúng tôi được nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại - phóng viên thường trú báo Nhân Dân tại Vinh và anh Bùi Đình Lân - phó ban tuyên giáo Thành ủy Vinh - dẫn đi chơi núi Quyết để chiêm ngưỡng di tích còn sót lại của Phượng Hoàng Trung Đô. Nơi đây đã chứng kiến một sự kiện lịch sử các đây 210 năm mà nay Tỉnh ủy và UBND tỉnh Nghệ An quyết định lấy ngày 1 – 10 – 1998 làm mốc kỷ niệm. Đứng trên ngọn núi cao hơn 96 mét so với mặt biển, tôi đã được nhìn một vùng rộng lớn gắn liền với hình ảnh phi thường của anh hùng áo vải Tây Sơn.

Năm 1786 sau khi đập tan quân Chúa Nguyễn ở đàng Trong, Nguyễn Huệ tiếp tục kéo quân ra Bắc dẹp Chúa Trịnh. Trong chuyến ra Bắc lần này, Ngài đã phát hiện và chú ý đến địa thế của vùng đất Yên Trường [TP. Vinh ngày nay]. Sau khi thống nhất đất nước. Ngài đã quyết định chọn vùng đất này để làm nơi đóng đô lâu dài. Kế hoạch đó, Ngài đã nhiều lần hỏi La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp. Lần đầu tiên, ngày 1- 6 - 1788 Ngài xuống chiếu “tờ chiếu không có dấu son. Ấy vì không cần, bởi lẽ chữ viết bằng son là chữ dành riêng cho vua viết” và “Lời tuy Nôm, nhưng dùng những câu toàn chữ xen vào. Hay là nói cho đúng, thì đó là văn chữ có xen Nôm. Như thế tỏ ra rằng, Nguyễn Huệ không phải hoàn toàn vô học” [*].

Trong chiếu có đoạn: “Ngày trước ủy cho Phu tử về Nghệ An xem đất đóng đô cho kịp kỳ này ngự giá ở Bắc về trú. Sao ta về tới đó thấy chưa được việc gì? Nên ta hồi giá về Phú Xuân cho sĩ tốt nghỉ ngơi. Vậy chiếu ban xuống cho Phu tử nên sớm cùng ông trấn thủ Thận tính toán mà làm việc, xem đất đóng đô tại Phù Thạch. Hành cung thì để phía sau khá gần núi. Chọn đất hoặc ở chỗ có dân cư, hoặc chỗ nào đất tốt có thể đóng đô được, là tùy Phu tử lấy con mắt tinh mà xét định. Sơm sớm chọn lấy, giao cho trấn thủ Thận chóng dựng cung điện. Hẹn trong ba tháng thì xong, để tiện việc giá ngự. Vậy Phu tử chớ để chậm chạp không chịu xem”. Nhận được chiếu, Phu tử xét thấy Phù Thạch [nay Hưng Lam - Hưng Nguyên] gần sông Lam, sợ sụt lở nên do dự. Phu tử đã viết tờ khải dâng lên - Sau khi đọc xong Nguyễn Huệ nhận xét: “Lại lấy cách ngôn và sự tích của cổ nhân mà răn ta. Lời bàn ấy, như liều thuốc hay, rất xứng với ý ta”.

Do đó, hơn nửa tháng sau, đúng ngày 19 - 6 - 1788 Ngài lại xuống chiếu thứ hai: “Nếu không lấy đất Nghệ An để chống thượng du, thì lấy đâu để khống chế trong ngoài. Chắc Phu tử đã xét rõ như vậy”. Thế nhưng lần này Phu tử vẫn lần lữa. Thấy vậy, qua tháng sau, ngày 4 - 7 - 1788, Nguyễn Huệ xuống chiếu lần thứ ba: “Đã truyền cho các huyện, xã bắt phu tới xây đắp. Kính mời Phu tử phiền dời gót ngọc tới Hành cung, nhằm định phương hướng, để kịp kỳ xây dựng. Chớ để dân đinh ở lại lâu mà phí của vô ích”. Phu tử vẫn im lặng, vì vậy hai tháng sau, Nguyễn Huệ xuống chiếu trách móc: “Nhiều lần phiền nhờ Tiên sinh xem đất. Những chỗ núi sông kết phát ở xứ này. Tiên sinh đã từng chú ý xét nhận, thế mà lâu chưa thấy trả lời”.

Nhưng vốn là người quả quyết và có tầm nhìn chiến lược nên Quang Trung vẫn cương quyết chọn Nghệ An làm nơi đóng đô. Tầm nhìn này, Ngài đã phân tích trong chiếu gửi cho Phu tử ngày 3 - 9 - 1788: “Nay kinh Phú Xuân thì hình thế cách trở. Ở xa trị Bắc Hà, sự thế rất khó khăn. Theo đình thần nghị rằng: chỉ đóng đô ở Nghệ An là độ đường vừa cân, vừa có thể khống chế được trong Nam ngoài Bắc, và sẽ làm cho người tứ phương đến kêu kiện, tiện việc đi về”. Và Ngài quyết định chọn vị trí đóng đô ở huyện Chân Lộc, xã Yên Trường [nay TP. Vinh] vì nhận thấy “hình thế rộng rãi, khí tượng tươi sáng”. Trong chiếu này cũng nói rõ: “Đã sức cho quan trấn sửa sọan gỗ ngói, khí cụ, hẹn ngày làm việc, chỉ có việc xem kiểu đất, thì phải hỏi đến Phu tử. Tiên sinh nên mau mau đến chốn ấy, ở tạm lại vài tháng, xét rõ vũng cồn, chọn lấy vượng địa để làm ngự điện, chỉ định phương hướng để tiện cho quan Trấn theo mà làm. Rồi vẽ địa đồ dâng nộp”.

Như vậy, từ năm 1788 kinh đô mới được xây dựng dưới thời vua Quang Trung. Nay chỉ còn lại một khu di tích rộng khoảng mười mẫu, nằm sát dưới chân núi Quyết. Núi này còn có tên là Dũng Quyết dưới thời Lê và người xưa gọi địa thế nơi đây là tứ linh. Truyền thuyết địa phương đã kể lại mà tôi ghi chép được: Tục truyền vào một thời đói kém, dân tình xiêu tán, Thượng đế sai bảo các con chim phượng hoàng mang thóc đến phân phát cho các nhà dân. Nhưng các con chim phượng hoàng lại bay vào các nhà giàu. Thấy vậy, Thượng đế bèn thu đôi cánh, nên phượng hoàng không về trời được, đi kiếm ăn trên mặt đất. Lâu ngày một con phượng hoàng hóa đá tại đây. Do đó, núi Quyết còn có tên là núi Phượng Hoàng.

Về vị trí chiến lược thì vua Quang Trung đã nhìn thấy Phượng Hoàng Trung Đô là điểm chốt quan trọng trên đường thiên lý độc đạo. Trước mặt có thể quan sát một vùng không gian rộng lớn từ núi Thành [Hưng Nguyên] đến núi Đò Cấm [Chân Lộc - nay Nghi Lộc]. Phía sau lưng là dòng sông Lam đổ ra biển Đan Nhai [nay là Cửa Hội] - như một con hào hiểm trở đầy lợi hại và núi Hồng Lĩnh như một bức trường thành che chở cho Phượng Hoàng Trung Đô. Nó có hai lần thành gọi là Thành ngoại và Thành nội. Thành ngoại hình tứ giác, kiểu hình thang, chu vi dài 2.820 mét, trong đó cạnh dài nhất dựa vào sườn núi, do đó, chỉ có ba cạnh của Thành ngoại được xây đắp cao chừng 3 đến 4 mét. Còn Thành nội xây dựng bằng đá ong, có chu vi 1.680 mét, giữa thành có lầu rồng 3 tầng…

Ngày 5 - 10 - 1789 sau khi ra Bắc lần thứ 3, vua Quang Trung đã dừng chân nghỉ tại Phượng Hoàng Trung Đô và xuống chiếu cho Phu tử: “Trẫm nay đóng đô tại Nghệ An, cùng Tiên sinh gần gụi. Rồi đây Tiên sinh hãy ra mà giúp nhau để trị nước…”. Có thể nói, dự định của vua Quang Trung là lấy Phượng Hoàng Trung Đô để thay thế Phú Xuân, tiếc rằng, Ngài mất sớm [16 - 9 - 1792] nên kế hoạch ấy không thành. Quang Toản lên ngôi lúc 10 tuổi vẫn đóng đô ở Phú Xuân. Năm 1802 quân Nguyễn Ánh tấn công thành Phượng Hoàng. Sau khi thắng được quân Tây Sơn, thành đã bị phá hủy. Về sự kiện trọng đại này, Hoàng Lê nhất thống chí có ghi: “Vua Quang Trung cho rằng, Nghệ An ở vào chính giữa nước, đường sá từ Nam ra Bắc đều vừa bằng nhau, quê tổ tiên mình cũng ở đấy, bèn sai trưng dụng rất nhiều thợ thuyền, chuyên chỡ gỗ, đá, gạch, ngói để xây dựng cung phủ lâu dài. Đắp thành đất chung quanh và sai quân lính đào đá ong ở địa phương để xây thành nội. Dựng tòa lầu Rồng ba tầng cùng điện Thái Hòa hai dãy hành lang, để phòng dùng đến trong những khi có lễ triều hạ. Thành này được gọi là Phượng Hoàng Trung Đô hoặc Trung Kinh Phượng Hoàng thành” [bản in của NXB Văn học - 1984, trang 203 - 204].

Hai trăm năm sau, chúng tôi có mặt ở di tích “nền cũ lâu đài bóng tịch dương”. Đâu rồi bóng dáng Phượng Hoàng Trung Đô ? Chỉ còn thấy những bờ thành ẩn chìm trong núi. Leo lên tận núi Quyết, chúng tôi thấy công nhân đang thi công. Nhà tưởng niệm lâm viên núi Quyết. Công việc bắt đầu từ ngày 6 - 6 - 1998 và dự kiến hoàn thành vào ngày 25 - 9 - 1998. Theo đồ án của KTS Nguyễn Khắc Dung [Viện nghiên cứu kiến trúc] thì ở đây sẽ có nhà bát giác [8 mái, 8 cổng], cột cờ cao 12, 5 mét và nhà bia ghi lại trang sử vẻ vang của Quang Trung khi cho dựng Phượng Hoàng Trung Đô.

Trao đổi với chúng tôi, ông Nguyễn Hữu Bản - Bí thư tỉnh ủy Vinh - tự hào nói: “Vinh là nơi hội tụ khí thiêng sông núi xứ Nghệ. Nếu ta lấy Vinh làm tâm, quay cung tròng bán kính chừng 30 cây số, đã thấy vùng này có bao nhiêu sự kiện lịch sử hào hùng. Từ thời vua Hùng đến vua Mai Thúc Loan [722], đến vua Trần Trùng Quang [1409] và sau này là Quang Trung [1788] đã 4 lần chọn Vinh và vùng phụ cận để đóng đô. Đặc biệt, Vinh là trung tâm của vùng văn hóa nổi tiếng Lam Hồng mà tiêu biểu là Kim Liên quê Bác và Tiên Điền quê thi hào Nguyễn Du. Quả đây là một vùng địa linh nhân kiệt”. Vâng, đúng vậy. Vinh còn là nơi đầu tiên - ngày 12 - 9 - 1930 thành lập Xô viết công nông ở nước ta. Đứng trên ngọn núi Quyết, nhìn một vùng không gian rộng lớn, chúng tôi tưởng như còn được nghe vó ngựa thuở nào của nghĩa quân Tây Sơn với tất cả sự tự hào…

L.M.Q

[nguồn: Tạp chí Kiến thức ngày nay số 294 [Ngày 1/10/ 1998].- Tr.12 – 15 [1.810]

------

[*] Có tham khảo tác phẩm “La Sơn Phu Tử” của Hoàng Xuân Hãn [bản in Minh Tân 1952 do NXB Văn học tái bản năm 1993].

Video liên quan

Chủ Đề