Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp giúp trẻ 3 4 tuổi xây dựng thói quen trong ăn uống

SKKN một số biện pháp rèn thói quen ăn uống cho trẻ mẫu giáo 3 4 tuổi ở trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [205.32 KB, 18 trang ]

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Trẻ em là tương lai của đất nước, của dân tộc. Đảng và nhà nước ta luôn coi
trọng công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Như Bác Hồ kính yêu đã nói “ Trẻ em như
búp trên cành, biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan”. Đúng như vậy trẻ em
như một cây non. Cây non được sự chăm sóc tận tình của người lớn thì cây sẽ
lên tốt, dạy trẻ tốt thì sau này trẻ thành người tốt. Chính vì vậy nghành học Mầm
non luôn coi trọng sự nghiệp chăm sóc – giaó dục trẻ.
Giáo dục Mầm Non là ngành học mở đầu trong hệ thống giáo dục quốc dân,
chiếm vị trí rất quan trọng. Giáo dục Mầm non có nhiệm vụ xây dựng những cơ
sở ban đầu, đặt nền móng cho việc hình thành nhân cách con người. Trẻ em là
hạnh phúc của mọi gia đình, là tương lai của cả dân tộc, việc bảo vệ chăm sóc
giáo dục trẻ không phải chỉ là trách nhiệm của mọi người, mọi nhà mà của toàn
xă hội và của cả nhân loại. Đây là thời điểm mấu chốt và quan trọng nhất, thời
điểm này tất cả mọi việc đều bắt đầu: Bắt đầu ăn, bắt đầu nói, bắt đầu nghe, nhìn
và vận động bằng đôi chân, đôi tay của mình.... tất cả những cử chỉ đó đều làm
lên những thói quen, kể cả thói xấu.
Chăm sóc, nuôi dưỡng, vệ sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ sức khỏe cho trẻ
trong trường mầm non là việc làm hết sức quan trọng mà toàn đảng, toàn dân ta
cần phải quan tâm. Riêng đối với bậc học mầm non việc chăm sóc, nuôi dưỡng
và bảo vệ sức khỏe cho trẻ được đặt lên hàng đầu vì mục tiêu giáo dục mầm non
là hình thành nhân cách con người mới Xã Hội Chủ Nghĩa, giúp trẻ khỏe mạnh,
hồn nhiên vui tươi và phát triển cân đối, hài hòa. Nếu chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ
không tốt sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, trí tuệ của trẻ. Chính vì vậy việc chăm
sóc, nuôi dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ là vô cùng quan trọng.
Bên cạnh đó các nhà giáo dục cũng thấy rằng về bản chất, phạm vi năng lực
tiềm tàng của trẻ rộng hơn rất nhiều so với những gì chúng thể hiện ở lớp. Và để
có thể làm bộc lộ năng lực tiềm ẩn này, trẻ cần có một môi trường học tập cho
phép chúng được học tập mọi lúc, mọi nơi, học theo nhiều cách khác nhau. Để
nuôi dưỡng trí thông minh là chăm sóc bảo vệ và kích thích trẻ trong quá trình


sinh trưởng. Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng trẻ có kinh nghiệm học từ
những ngày đầu tiên của cuộc đời. Vì vậy sự nuôi dưỡng trí lực của trẻ có thể
bắt đầu ngay sau khi trẻ sinh ra. Đó là một quá trình lâu dài đòi hỏi rất nhiều sự
âu yếm, kiên trì, hiểu biết về chăm sóc và dạy bảo của cha mẹ, ông bà và cô
giáo. Khi trẻ đến lớp, mỗi trẻ là một cơ thể riêng biệt và trẻ sẽ hành động trong
một môi trường theo cách của mình. Chính vì vậy cô giáo cần tạo cho trẻ có một
tâm thế tốt khi đến lớp, một không khí tình cảm yêu thương, tôn trọng trẻ. Điều
này giúp trẻ nghe lời cô và phát triển khả năng bẩm sinh sẵn có của mình.
1


Như chúng ta đã biết ăn, uống là nhu cầu thiết yếu không thể thiếu được
trong đời sống hàng ngày của mỗi con người; là yếu tố ảnh hưởng đến sự phát
triển, hoạt động và học tập của trẻ. Vậy cần phải ăn, uống như thế nào để đảm
bảo dinh dưỡng, cân đối hài hoà giữa chất và lượng giúp trẻ phát triển toàn diện
cả về thể chất và tinh thần. Nhưng thói quen ăn uống của trẻ, nhất là trẻ 3- 4 tuổi
sẽ như thế nào? Đó là vấn đề quan tâm của tất cả các bậc phụ huynh và các cô
giáo làm nhiệm vụ chăm sóc nuôi dưỡng trẻ. Làm thế nào để trẻ 3- 4 tuổi có một
thói quen ăn uống tốt đang là một vấn đề được quan tâm, chú trọng trong các
trường mầm non.
Giai đoạn trẻ 3- 4 tuổi là giai đoạn mà trẻ có những chuyển biến rõ rệt của
việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ, các mặt phát triển của trẻ hoà
quyện vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, không tách bạch rõ nét. Trẻ còn non
nớt, nhạy cảm với tác động bên ngoài, đồng thời cũng là thời gian trẻ phát
triển rất nhanh về tất cả mọi mặt. trẻ rất dễ bị tổn thương về tâm lý. Bởi thế
muốn rèn luyện nề nếp thói quen ngay từ những ngày đầu trẻ mới đi học cô
giáo phải làm sao để trẻ cảm nhận được nguồn hạnh phúc, thấy mình được
chấp nhận, được an toàn, được yêu mến và là thành viên trong lớp mà trẻ
đang hoà nhập, tạo quan hệ giữa cô với trẻ giàu cảm xúc, thân thiết, yêu
thương như quan hệ mẹ con. Vậy đòi hỏi cô giáo mầm non phải rất linh hoạt,

nhạy bén, kịp thời, phải có sự sáng tạo để phát hiện và đáp ứng những nhu
cầu phát triển của trẻ.
Hoạt động lao động sư phạm của cô giáo mầm non phải có định hướng, có
mục đích để giáo dục, phát triển trẻ. Tác động sư phạm của cô giáo phải luôn
thay đổi, phù hợp với nhu cầu phát triển của trẻ, có cảm tình, có hứng thú.
Nghệ thuật chủ yếu của cô thể hiện ở chỗ biết hoà nhập vào thế giới của trẻ,
biết quên mình là người lớn để thực sự là người bạn của trẻ. Biết tôn trọng và
đồng cảm với trẻ, tạo nên không khí cởi mở, lôi cuốn, thu hút trẻ. Như thế trẻ
dễ nghe theo sự hướng dẫn của cô, biết vâng lời cô một cách thoải mái, vui
vẻ. Từ đó giúp trẻ có những hiểu biết nhất định, tạo cho trẻ có đầy đủ điều
kiện về thể lực, kiến thức. Đồng thời hình thành và phát triển nhân cách tốt
cho trẻ, tạo tiền đề cho trẻ phát triển khỏe mạnh, cân đối. Và muốn thực hiện
những mục tiêu đó thì mọi thói quen ban đầu của trẻ cần được chú trọng, thực
hiện thường xuyên, liên tục và không ngừng được đổi mới. Một trong những
thói quen của trẻ là thói quen trong ăn, uống. Nếu ta chú trong rèn cho trẻ thói
quen tốt ngay từ ban đầu thì đứa trẻ đó sẽ phát triển rất tốt, còn nếu chúng ta
cứ bỏ mặc trẻ thì chúng sẽ phát triển theo chiều hướng không tốt. Điều đó
khiến chúng ta phải suy nghĩ. Chính vì vậy bản thân những cô giáo làm
nhiệm vụ nuôi dưỡng chăm sóc trẻ và các bậc cha mẹ trẻ cần quan tâm và rèn
cho trẻ những thói quen tốt trong ăn uống ngay từ những ngày đầu đi học để
giúp trẻ được phát triển một cách toàn diện.
2


Trong một lớp học có bao nhiêu trẻ thì có bấy nhiêu sự khác biệt cá nhân.
Những sự khác biệt này bao gồm cả về thể chất, năng lực, trí lực, xu hướng,
hứng thú. Và tất cả các trẻ đều có quyền đòi hỏi được quan tâm đáp ứng nhu cầu
của bản thân. Trẻ chỉ có thể phát triển, khoẻ mạnh, thông minh có nề nếp, khi
được sống trong môi trường thật sự yêu thương chăm sóc và chú ý khuyến khích
giúp đỡ của người lớn. Đúng vậy, trong những năm qua ngành giáo dục huyện

Tam Dương đã có những biện pháp chỉ đạo có hiệu quả tuyên truyền và giáo dục
tại các trường Mầm non. Đặc biệt sau khi thực hiện chuyên đề “Nâng cao chất
lượng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm” đã thu được kết quả
rất cao. Bên cạnh đó việc dạy cho trẻ có những thói quen nền nếp trong ăn uống
là một việc làm vô cùng quan trọng trong việc nuôi dạy giáo dục trẻ ở trường.
Thông qua việc làm này đã góp phần giúp trẻ có một thói quen tốt trong ăn
uống, trong sinh hoạt, đồng thời giúp trẻ phát triển, củng cố những tố chất vận
động, sự khéo léo, tính kiên trì, kỷ luật…. do đó góp phần quan trọng trong việc
hình thành nhân cách mới cho trẻ. Nếu trẻ có một thói quen ăn uống xấu không
những ảnh hưởng đến ham muốn ăn uống mà còn ảnh hưởng đến sự hấp thụ các
chất dinh dưỡng. Cho nên khi trẻ đến lớp, giáo viên nhất thiết phải chú ý rèn
luyện thói quen ăn uống tốt cho trẻ ngay từ những ngày đầu. Chính vì vậy tôi
chọn đề tài “Một số biện pháp rèn thói quen ăn uống cho trẻ mẫu giáo 3-4
tuổi ở trường mầm non”. Để trẻ luôn khoẻ mạnh phát triển một cách toàn diện
về đức, trí, thể, mĩ, tình cảm quan hệ xã hội thì việc chăm sóc giáo dục và nuôi
dưỡng trẻ theo khoa học là hết sức quan trọng và cần thiết. Trong đó việc nuôi
dưỡng trẻ theo khoa học được coi trọng, nó ảnh hưởng tới sự phát triển toàn diện
của trẻ.
Câu tục ngữ “Tiên học lễ, hậu học văn” đã thấm sâu vào trí óc tôi, ngay từ
thời còn là học sinh tiểu học cho đến bây giờ là một giáo viên mầm non tôi cũng
hiểu hơn về ý nghĩa sâu sắc của câu tục ngữ đó. Các cháu mầm non với đôi mắt
trong veo đầy thơ mộng, tâm hồn trẻ như tờ giấy trắng, nếu khéo vẽ thì tròn, còn
không khéo thì méo mó. Suy nghĩ nhiều về vấn đề đó, tôi nghĩ mình cần phải
đầu tư nhiều vào việc giáo dục lễ giáo cho các cháu tô điểm vào tâm hồn các
cháu những cái hay cái đẹp, để các cháu trở thành những bông hoa thơm ngát, là
người có hành vi văn minh lịch sự.
Do khả năng nghiên cứu còn nhiều hạn chế nên chắc chắn đề tài sẽ còn
nhiều thiếu sót, rất mong các bạn đồng nghiệp, các cấp lãnh đạo và hội đồng
khoa học đóng góp ý kiến để đề tài được hoàn thiện hơn.
2. Tên sáng kiến.

Xuất phát từ lí do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài sáng kiến: “Một số biện
pháp rèn thói quen ăn uống cho trẻ mẫu giáo 3- 4 tuổi ở trường mầm non” để
nghiên cứu và đưa vào thực hiện tại trường.
3. Tác giả sáng kiến.
- Họ và tên: Nguyễn Thị Thảo
3


- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường mầm non Hợp Hòa
- Số điện thoại: 0349833266
- Gmail:
4. Chủ đầu tư sáng kiến: Chính là tác giả đã đầu tư sáng kiến với quỹ
thời gian nghiên cứu; mua các tài liệu nghiên cứu, toàn bộ hồ sơ sổ sách, đồ
dùng, đồ chơi phục vụ các giờ học…
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
- Lĩnh vực chăm sóc nuôi dưỡng trẻ của giáo viên tại lớp 3- 4 tuổi.
- Sáng kiến được áp dụng tại các lớp 3- 4 tuổi tại trường MN Hợp Hòa và
có thể nhân rộng ra các nhóm trẻ tại các trường MN trong toàn huyện.
6. Ngày sáng kiến kinh nghiệm được áp dụng.
Sáng kiến: Một số biện pháp giúp rèn thói quen ăn uống cho trẻ mẫu
giáo 3- 4 tuổi ở trường mầm non”.. Sáng kiến kinh nghiệm được áp dụng lần
đầu và được thử nghiệm từ tháng 02 năm 2018 và kết thúc vào ngày 20 tháng 2
năm 2019.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến.
7.1 Về nội dung của sáng kiến
* Cơ sở lí luận
“Một số biện pháp rèn thói quen ăn uống cho trẻ mẫu giáo 3- 4 tuổi ở
trường mầm non”. Việc nghiên cứu thực trạng của sáng kiến kinh nghiệm này
nhằm mục đích:
- Rèn thói quen tốt trong ăn uống cho trẻ nhà trẻ 3- 4 tuổi, giúp các bé phát

triển củng cố tố chất vận động, sự khéo léo, tính kiên trì, kỷ luật...góp phần quan
trọng trong việc hình thành nhân cách cho trẻ.
- Xác định rõ thực trạng công tác chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện Chương
trình trong nhà trường.
- Phân tích kết quả ghiên cứu thực trạng để tìm hiểu nguyên nhân của thực
trạng, làm cơ sở cần thiết để áp dụng thực nghiệm đề tài nghiên cứu.
Khi tiến hành nghiên cứu và ứng dụng trong giảng dạy tại lớp chính là tìm
được những nguyên nhân các mặt tích cực và hạn chế của việc thực hiện chương
trình rèn thói quen tốt trong ăn uống của giáo viên trong nhà trường, của bản
thân; đồng thời tìm ra được các giải pháp khắc phục những tồn tại và hạn chế.
Giúp cho bản thân nhìn nhận đúng thực trạng để xây dựng kế hoạch phù
hợp với độ tuổi, với trẻ, với lớp của mình, cải tiến những tồn tại và phát huy
những thành tựu đã đạt được trong thực hiện hiệu quả phát triển thể chât trong
chương trình GDMN mới ở trường mầm non.
Với đề tài “Một số biện pháp rèn thói quen ăn uống cho trẻ mẫu giáo 3-4
tuổi ở trường mầm non”. Khi tiến hành nghiên cứu, ứng dụng sáng kiến tôi tiến
hành như sau:
4


- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn hiệu quả về rèn thói quen tốt trong
ăn uống trong chương trình GDMN cho trẻ 3- 4 tuổi.
- Nghiên cứu thực trạng về kiến thức kỹ năng thói quen ăn uống của 29 trẻ
lớp 3- 4 tuổi B trường Mầm non Hợp Hòa và các trường Mầm non trong toàn
Huyện nói chung.
- Nghiên cứu việc lập kế hoạch có lồng luồn nội dung giáo dục kỹ năng ăn
uống cho trẻ và thực nghiệm dạy trẻ thông qua các giờ ăn, giáo dục vệ sinh và
bé tập làm nội trợ theo đúng chương trình giáo dục mầm non của trẻ lớp 3- 4
tuổi. Từ đó:
Đề xuất tổ chức thực nghiệm biện pháp dạy trẻ rèn thói quen tốt trong ăn

uống ở lớp 3 tuổi B nói riêng, ở trường mầm non Hợp Hòa nói chung, nhằm
nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ tại lớp, trường mầm non. Nếu thu
được kết quả tốt sẽ giúp giáo viên áp dụng vào việc rèn thói quen ăn uống cho
trẻ 3- 4 tuổi nói riêng, giáo viên tổ khác trong nhà trường nói chung và nhân ra
diện rộng trong các trường MN trên toàn huyện.
Việc điều tra thực trạng là một vấn đề rất quan trọng và cần thiết cho việc
nghiên cứu. Điều tra thực trạng sẽ giúp bản thân tôi thấy được những ưu điểm và
những tồn tại của những vần đề liên quan đến đề tài nghiên cứu. Từ đó giúp tôi
định hướng được những vấn đề cần làm để có biện pháp cụ thể, phù hợp với
thực tế và để thực hiện có hiệu quả. Chính vì vậy để thực thi đề tài này tôi đã
tiến hành điều tra thực trạng về thói quen ăn uống của trẻ.
Trước khi đưa ra các biện pháp để đưa vào thực nghiệm ở lớp học của
mình, tôi đã tiến hành khảo sát thăm dò ý kiến, nhận xét của giáo viên, phụ
huynh, và khảo sát chất lượng trên trẻ:
* Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Qua thăm dự các lớp trong trường tôi thấy rằng hiện nay GV các lớp đều gặp
khó khăn chung là số trẻ trong lớp khá đông [trẻ mẫu giáo bé] do nhu cầu gửi con
của PH cao, số lượng trẻ lứa tuổi MGB quá đông.
- Khó khăn thiếu phương tiện giáo dục là 5/5 GV chiếm tỷ lệ 100% là do
kinh phí mua sắm trang thiết bị còn hạn chế, đồ dùng phục vụ cho các giờ dạy
GDVS và BTLNT còn thiếu.
Biểu 1: Kết quả thăm dò ý kiến giáo viên và phụ huynh về sự cần thiết của
việc rèn thói quen tốt trong ăn uống cho trẻ.
TT

5

Sự cần thiết của việc rèn thói quen tốt
trong ăn uống


Tỷ lệ %

1

Rất cần thiết

85.3

2

Cần thiết

14.7

3

Bình thường

0

Ghi chú


4

Không cần thiết

0

Thực tế cho thấy việc rèn thói quen tốt trong ăn uống cho trẻ MG Bé là rất

cần thiết. Để thỏa mãn nhu cầu học tập cho trẻ, giáo viên cực chủ động tham gia
hoạt động thì trẻ đó sẽ có kỹ năng văn minh, lịch sự trong vệ sinh ăn uống. Khi
trẻ tham gia hoạt động thì trẻ sẽ được rèn luyện nề nếp, thói quen tốt trong ăn
uống. Luyện một số thói quen tốt trong sinh hoạt như: ăn chín, uống chín; rửa
tay trước khi ăn; lau mặt, lau miệng, uống nước sau khi ăn; vứt rác đúng nơi quy
định; luyện thói quen ngủ một giấc trưa. Ngược lại nếu trẻ ít tham gia hoạt động,
chưa tích cực hoạt động thì sẽ chậm chạp và chưa có thói quen tốt trong sinh
hoạt điều đó sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến việc hình thành và phát triển nhân cách
toàn diện của trẻ sau này.
Khi thăm do ý kiến về sự cần thiết dạy thói quen tốt cho trẻ trong ăn uống
thì phụ huynh chiếm đa số trả lời “Thế nào cũng được”. Sự nhận thức của phụ
huynh về vấn đề rèn thói quen tốt trong ăn uống cho trẻ mầm non còn rất hạn
chế, họ cho rằng chỉ cần cho con đến lớp cô giáo trông và học hát múa là đủ.
Biểu 2: Biểu thống kê tình hình đội ngũ giáo viên dạy lớp mẫu giáo 3-4
tuổi các trường mầm non
Số lớp
3 tuổi

Số giáo
viên
dạy lớp
3 tuổi

MN Hợp Hòa – Tam Dương

4

MN Hướng Đạo – Tam Dương

6


Tên trường

Trình độ đào tạo
ĐH



TC

5

5

0

0

6

5

0

1

Biểu 3: KÕt qu¶ khảo sát trẻ đầu năm về thói quen trong ăn uống cho
trẻ tại lớp 3 tuổi B trường mầm non Hợp Hòa.
Nội dung


Đánh giá
Trẻ

Tỉ lệ %

Biết tự xúc ăn

13/29

44%

Xúc ăn gọn gang

10/29

34%

Biết ăn các loại thức ăn

15/29

51%

Ăn hết xuất

14/29

48%

Biểu 4: KÕt qu¶ khảo sát trẻ đầu năm về thói quen trong ăn uống

cho trẻ tại lớp 3 tuổi A2 trường mầm non Hướng Đạo.
Nội dung

Đánh giá
Trẻ

6

Tỉ lệ %


Biết tự xúc ăn

11/27

40%

Xúc ăn gọn gang

9/27

33%

Biết ăn các loại thức ăn

12/27

44%

Ăn hết xuất


10/27

37%

* Nguyên nhân của thực trạng
Việc hình thành cho trẻ những thói quen tốt trong ăn uống là rất cần thiết,
ăn uống lịch sự mời mọi người trong khi ăn, không làm rơi vãi cơm , sử dụng đồ
dung một cách khoa học, biết tên nhiều món ăn và chấp nhận ăn nhiều món ăn
cân đối để tăng cường sức khỏe. Tuy nhiên trong quá trình tổ chức, hướng dẫn
trẻ giáo viên thường hay mắc phải một số nhược điểm sau
+ Về giáo viên
- Kĩ năng tổ chức cho trẻ sử dụng đồ dùng của giáo viên còn hạn chế.
- Giáo viên còn thiếu, đôi khi cô còn nói nhiều, cách truyền đạt chưa lưu
loát, không gây được hứng thú khi giới thiệu món ăn trước mỗi giờ ăn cho trẻ.
- Giáo viên còn ngại trong việc thiết kế hoạt động Giáo dục dinh dưỡng
và Bé tập làm nội trợ, đa số là sử dụng những đồ dùng, đồ chơi cũ, không mang
lại hứng thú cho trẻ, do đó trẻ không tích cực và hứng thú tham gia hoạt động.
+ Về trẻ
- Do đặc điểm tâm lý của trẻ biếng ăn, ham chơi.
- Thực đơn của trường, gia đình chưa đủ hứng thú đối với mọi trẻ, nhận
thức về dinh dưỡng sức khỏe còn nhiều hạn chế.
- Trẻ do được chiều chuộng chưa có tính tự giác
- Do thói quen của gia đình ăn cơm thường trò chuyện
- Trong lớp có những trẻ bị suy dinh dưỡng, thấp còi cho nên ăn uống gặp
nhiều khó khăn
- Vẫn còn một số trẻ rụt rè nhút nhát chưa nhập mình học các kỹ năng tự
phục vụ
+ Về phụ huynh
- Sự phối kết hợp giữa phụ huynh đối với nhà trường vẫn còn hời hợt.

- Nhận thức của các bậc phụ huynh chưa đồng đều. Một số cha mẹ trẻ còn
chiều con còn nhỏ ở nhà phải bón ăn, bao bọc con quá khiến trẻ trở nên thụ
động.
7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến
Trước thực trạng trên, với trách nhiệm là một nhà giáo tôi nhận thấy cần
phải có biện pháp để giúp trẻ 3- 4 tuổi có thói quen tốt trong ăn uống. Qua
nghiên cứu tôi thấy có rất nhiều biện pháp để giúp trẻ có thói quen tốt trong ăn
7


uống. Sau đây tôi xin đưa ra một số biện pháp mà bản thân đã áp dụng có hiệu
quả.
Biện pháp 1: Chuẩn bị tốt trước khi cho trẻ ăn. Giáo dục dinh dưỡng
cho trẻ trong khi ăn.
Để nâng cao chất lượng bữa ăn và giáo dục dinh dưỡng trong khi ăn các
cô giáo cần chuẩn bị trước khi cho trẻ ăn như sau :
- Chuẩn bị bàn, ghế cho trẻ ăn phải sạch sẽ, gọn gàng, đủ cho trẻ ngồi,
trên bàn phải có đĩa đựng cơm rơi, khăn ẩm để lau tay.
Bát, thìa phải đủ số lượng trẻ có mặt trong lớp.
- Khi chia ăn các cô giáo phải đeo khẩu trang, trong khi cho trẻ ăn cô cần
chú ý đến những trẻ biếng ăn để động viên cháu ăn hết xuất.
- Thông qua giờ ăn các cô giáo dục dinh dưỡng cho trẻ, giúp trẻ phát triển
nhận thức, phát triển ngôn ngữ cho trẻ...
Ví dụ:
Về nhận thức: Giúp trẻ nhận biết được tên những loại thức ăn như thịt lợn,
thịt gà, thịt bò, cá, trứng…, rau cải, rau mồng tơi… trẻ biết ăn sạch, uống sạch…
Trẻ biết được các chất dinh dưỡng có trong bữa ăn hàng ngày như: Trong thịt có
chất đạm, trong rau có chất Vitamin, trong cơm có tinh bột đường,…
Về ngôn ngữ: Qua việc đặt câu hỏi, trẻ trả lời đã giúp trẻ phát triển
ngôn ngữ rất tốt Trẻ biết kể tên các thực phẩm mà trẻ được ăn như: Thịt, cá,

trứng, rau, quả….các chất dinh dưỡng có trong thức ăn…
Ví dụ: Hôm nay lớp mình ăn cơm với những thức ăn gì? Có ngon không?
Bạn nào ăn giỏi?...
- Lồng luồn giáo dục dinh dưỡng qua các hoạt động hàng ngày
Tôi hướng dẫn giáo viên lên kế hoạch đưa giáo dục dinh dưỡng vào các
hoạt động hàng ngày vì đây là việc làm hết sức cần thiết bởi qua đó trẻ sẽ ghi
nhớ tốt hơn.
Trong giờ đón - trả trẻ là thời gian thuận lợi cho việc tuyên truyền, giáo dục
dinh dưỡng tới phụ huynh, bằng việc các cô hỏi thăm phụ huynh về chế độ ăn
uống hàng ngày của trẻ ở nhà, ở nhà trẻ thường ăn cơm với thức ăn gì? Cháu đã
có sự tiến bộ như thế nào ? Cháu có làm rơi cơm nhiều không? Khi ăn con có
biết mời mọi người ăn không ?...
Thông qua giờ ăn hàng ngày ở lớp, cô đặt ra các câu hỏi: Trước khi ăn
chúng mình phải làm gì? Vì sao? Sau khi ăn phải làm gì ? Nếu cơm rơi con sẽ
làm gì ?...
Trong các giờ học và hoạt động vui chơi, cô giáo cần phải giải thích cho trẻ thấy
được giá trị của từng loại thức ăn, ăn uống đầy đủ sẽ làm cơ thể khỏe mạnh, da dẻ hồng
hào, thông minh học giỏi, nếu ăn không đủ chất sẽ gầy còm ốm yếu…Khi cho trẻ quan
sát vật thật, xem tranh, trò chuyện, đọc câu đố, bài thơ giúp trẻ nhận biết một số thực
8


phẩm gần gũi như rau, hoa quả, con vật và biết được lợi ích của thức ăn đó. Qua đó
trẻ biết cách ăn một số thức ăn đã được làm quen như: ăn cam bỏ vỏ, bỏ hạt ăn chuối
bỏ vỏ…và bắt chước một vài hành động của người lớn như: nấu ăn, cho em bé ăn….
Biện pháp 2: Động viên trẻ tự xúc ăn, cố gắng tập cho trẻ sớm sử
dụng thìa để nâng cao hứng thú ăn cho bé.
Như các bậc phụ huynh đã biết cứ đến bữa ăn của gia đình, của lớp mà trẻ
được ngồi cùng mâm, cùng bàn với mọi người, với các bạn, cũng có bát thìa để
ăn thì bé thích lắm, chúng luôn tay sử dụng thìa để xúc cơm, thức ăn mặc dù

được ít, thậm chí rơi vãi ra ngoài…. Một số phụ huynh sợ con bẩn nên không
cho trẻ dùng bát, thìa hoặc tự xúc. Như vậy vô tình chúng ta đã kìm hãm ham
muốn ăn uống của trẻ nên để trẻ tập xúc ăn, khi ăn nên xới cho trẻ một ít ăn
trước, ăn hết lại xới thêm. Tránh ép trẻ ăn khiến trẻ không thích và sinh ra bực
bội mà trẻ chán ăn.
- Trong giờ ăn tôi cho trẻ được ngồi vào bàn ăn cùng với các bạn trong
lớp, tạo tâm thế vui vẻ cho trẻ, xới cho mỗi trẻ một xuất ăn theo quy định, động
viên trẻ tự chộn thức ăn và tự xúc ăn bằng thìa. Mỗi trẻ đều có một xuất cơm của
mình, có thìa để xúc, trẻ sẽ rất thích. Nhưng sự thích thú của trẻ không được lâu
và có những trẻ không thích tự xúc cơm nên cô giáo cần thường xuyên động
viên, khuyến khích trẻ như: Con xúc cơm ăn đi, bạn An xúc cơm rất tài, bạn ấy
ăn gần hết bát rồi…Con hãy cố lên…Cô thấy cơm hôm nay rất ngon. Bạn nào
ăn giỏi cô sẽ thưởng phiếu bé ngoan vào cuối tuần …Con xúc cơm thi với bạn
Bình xem ai xúc cơm giỏi hơn nhé!…
- Cô giáo luôn là tấm gương sáng cho trẻ noi theo, luôn hướng dẫn, động
viên, khích lệ kịp thời với trẻ như: Con cầm thìa lên bằng tay phải, tay trái giữ
bát, xúc từng ít cơm rồi đưa vào miệng cẩn thận kẻo rơi ra ngoài. Khi cơm rơi
con phải biết nhặt vào đĩa, không đùa nghịch trong khi ăn…
- Khuyến khích phụ huynh khi về nhà cũng dạy trẻ tập xúc ăn như ở lớp.
Hãy để cho trẻ được tự xúc cơm ăn, dùng đũa gắp thức ăn… mặc dù trẻ có thể
làm đổ hoặc rơi cơm hay làm bẩn quần áo... Chúng ta không nên quát mắng trẻ
mà cần động viên, khích lệ trẻ để trẻ có cảm giác thích thú và dần dần trẻ sẽ xúc
ăn một cách gọn gàng hơn. Sự phối hợp tốt giữa phụ huynh và cô giáo sẽ giúp
thói quen của trẻ đạt kết quả cao.
Ví dụ: Khi dạy trẻ tập xúc cơm cô nói con cầm thìa bằng tay phải và xúc
cơm thật khéo, như vậy tay con dẻo như diễn viên múa, mai sau con sẽ múa dẻo,
múa đẹp và được đi biểu diễn ở nhiều nơi và được nhiều người biết đến.
Biện pháp 3: Tạo không khí vào bữa ăn nhẹ nhàng, vui vẻ, khiến bé
giữ được tình cảm vui vẻ, yên tĩnh nhẹ nhõm.
Cũng như người lớn việc tạo cảm giác thích thú trước khi ăn là vô cùng

quan trọng, không thể thiếu được vì nếu trước bữa ăn mà buồn, chán thì trong
suốt bữa ăn đó trẻ cũng không vui vẻ, luôn ở trạng thái uể oải, không tập trung.
9


Do đó trước giờ ăn tôi kể cho trẻ nghe những câu chuyện vui, liên quan đến cách
ăn uống và mang tính giáo dục cao hoặc cho trẻ kể chuyện, trò chuyện, đọc thơ,
hát... Không những thế trong lúc ăn giáo viên trong nhóm lớp luôn dùng lời lẽ
nhẹ nhàng, động viên, khen ngợi kịp thời mỗi khi trẻ ăn ngoan hay nghe lời cô
giáo. Và tôi đã chủ động trao đổi với phụ huynh về cách làm này để phụ huynh
hưởng ứng và tạo cảm giác ngon miệng cho trẻ mỗi khi trẻ ở nhà.
Ví dụ: Cô hát cho trẻ nghe bài: Mời bạn ăn, trẻ vỗ tay theo nhịp bài hát.
Đã đến giờ ăn rồi cô mời các con ngoan nhanh chân ngồi vào chỗ ngồi của mình
để ăn cơm tài, ăn cơm giỏi nào! Hôm nay cô sẽ xem bạn nào ăn nhanh và sạch
nhất cô sẽ thưởng.
Biện pháp 4: Ăn uống đúng vị trí, thời gian, số lượng, sắp xếp hợp lý
số bữa ăn mỗi ngày.
Ngay từ đầu năm học nhà trường đã xây dựng thực đơn theo mùa và sắp
xếp hợp lý thời gian ăn, số bữa ăn cũng như các loại thức ăn phù hợp với từng
độ tuổi của trẻ. Nhà trường đa sắp xếp hợp lý số bữa ăn hàng ngày của trẻ. Đối
với trẻ mẫu giáo bé nhà trường đã tổ chức cho trẻ ăn 1 bữa chính trưa, 1 bữa
chính chiều và 1 bữa phụ chiều.
Tuy trẻ 3-4 tuổi còn nhỏ nhưng là một giáo viên chủ nhiệm tôi đã phố hợp
với các giáo viên tại các nhóm lớp khác thực hiện đúng thời gian biểu trong
ngày của trẻ, đặc biệt là thời điểm ăn, uống. Tổ chức cho trẻ ăn, uống đúng vị
trí, thời gian, số lượng thức ăn theo thực đơn của nhà trường.
- Thực hiện đúng thời gian bắt đầu tổ chức ăn cho trẻ nhà trẻ là từ: 10h0010h20.
- Bàn ghế được sắp xếp khoa học, đúng vị trí quy định với số lượng đủ
cho tất cả các trẻ trong lớp.
- Cho trẻ ăn đúng thực đơn, đủ khẩu phần theo quy định.

Đây là biện pháp rất quan trọng vì đã hình thành được phản xạ có điều
kiện cho trẻ như đến giờ ăn nhất định, vị trí môi trường đã định, thì đại não sẽ
chỉ huy các cơ quan tổ chức toàn thân làm tốt công việc chuẩn bị vào bữa tiếp
thu thức ăn. Chẳng hạn: phản xạ tiết nước bọt tăng, đường dạ dày bắt đầu nhu
động, các loại men tiêu hoá do đường tiêu hoá tiết ra tăng lên, khiến bé tăng cảm
giác đói. Tâm lý, sinh lý của trẻ được chuẩn bị, trẻ có thể ăn được một cách chủ
động, ăn chăm chú, ngon miệng.
Để biện pháp này có hiệu quả tôi đã phối hợp với giáo viên trong 4 nhóm
lớp nghiêm túc thực hiện chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ [không cắt xén, thay
đổi tùy tiện] thực hiện đúng thời gian ăn theo quy định. Có như thế mới tạo cho
trẻ thói quen tốt giờ nào việc ấy. Bên cạnh đó tôi còn phối hợp với các cô giáo
trong tổ nuôi, tuyên truyền với phụ huynh thực hiện tốt thời gian biểu giống như
trên lớp khi trẻ ở nhà. Có như vậy quá trình rèn luyện của trẻ mới không bị ngắt
10


quãng, ngắt giai đoạn. Việc làm này đã làm tăng sự gần gũi giữa gia đình, nhà
trường và cô giáo nhằm tạo nên thói quen tốt cho trẻ.
Biện pháp 5: Tập cho trẻ tính tự lập
Từng bước giáo dục tính tự lập cho trẻ như biết tự đi đến bàn ăn, tự xúc
cơm ăn, ăn xong xếp bát, thìa vào chỗ quy định theo sự hướng dẫn của cô giáo,
tự đứng dậy sau khi ăn xong, tự uống nước. tập cho trẻ những thói quen tốt: ăn
uống từ tốn, nhai kỹ, khi muốn ho hoặc hắt hơi phải lấy tay che miệng. Dạy trẻ
biết mời người xung quanh ăn cơm, biết yêu cầu, lấy nước uống, cho thêm
canh…một cách lễ phép, biết cảm ơn. Không lấy tay bốc thức ăn, không xúc
thức ăn của bạn hoặc xúc thức ăn cho bạn, không đặt thìa xuống bàn, không vứt
bát, cốc, thìa lung tung sau khi ăn.
Biện pháp 6: Tổ chức linh hoạt bữa ăn cho trẻ
+ Kéo dài giờ ăn hơn đối với những trẻ ăn chậm, lười ăn.
Ví dụ: Đối với những trẻ ăn bình thường với tiêu chuẩn 2 bát cơm nhỏ/1

bữa nhưng với những trẻ lười ăn, cũng tiêu chuẩn đó nên chia ra làm những
phần nhỏ để trẻ ăn ít một, hết lại lấy thêm. Trong khi ăn, cô giáo còn động viên
trẻ kịp thời nói cho trẻ biết nếu ăn ngoan, hết xuất sẽ rất xinh gái, đẹp trai, học
giỏi được cô yêu, bạn quý… Tuy trẻ ăn hơi lâu hơn các bạn cô giáo không hề
thúc giục mà cứ để trẻ ăn từ từ nhai kỹ nhưng có những khích lệ kịp thời để trẻ
ăn nhanh hơn bạn khác.
+ Tôi phân ra từng nhóm trẻ để phụ trách từng nhóm trẻ lười ăn, ăn chậm
từ đó nắm được đặc điểm riêng cá tính của từng trẻ.
Đúng như vậy nhờ sự sát xao tới từng trẻ của cô giáo trong lớp mà đã biết
được cá tính riêng của từng trẻ và kịp thời điều chỉnh.
Ví dụ: Cháu Tuệ Anh hay ngậm cơm, nhả bã thịt, cháu Như hay uống
nước canh, cháu Thảo chỉ ăn được một miếng cơm rất bé…
Đối với những cháu này trước giờ ăn tôi thường kể cho trẻ nghe một số
câu chuyện nói về các bạn có những nết ăn chưa tốt hay những gương bạn ăn tốt
qua đó giáo dục trẻ.
Bên cạnh đó tôi còn hướng dẫn phụ huynh cách chăm sóc con ở nhà
[những ngày nghỉ hoặc buổi chiều về] .
Ví dụ: Tôi đưa tới tận tay từng phụ huynh có con lười ăn chế độ sinh hoạt
một ngày của trẻ, đặc biệt nhấn mạnh giờ ăn các buổi cho phụ huynh rõ. Đồng
thời tôi cung cấp cho phụ huynh những tài liệu nói về tác dụng của hoa quả đối
với bữa ăn của trẻ như thế nào và thời điểm nào cho trẻ ăn hoa quả là hợp lý
nhất…
Bằng những hình thức trên tôi đã được phụ huynh phản ánh là nhờ sự
giúp đỡ hướng dẫn của cô giáo mà kết quả các bữa ăn của con tôi ở nhà có tiến
bộ rõ rệt và trong bữa ăn trẻ ăn được nhiều hơn.
11


Biện pháp 7: Tạo môi trường lớp học phong phú
- Luôn tạo môi trường lớp học phong phú với những mảng tường gây sự

tò mò cho trẻ đặc biệt là những bức tranh về ăn uống. Từ đó giáo dục trẻ liên hệ
thực tế trong bữa ăn của trẻ.
Ví dụ: Trong chủ điểm gia đình tôi trang trí lớp bằng những tranh ngộ
nghĩnh như trẻ đang ngồi ăn cơm cùng cả nhà. Hay ở chủ đề thực vật cô giáo lại
trang trí lớp bằng những bức tranh rau hoa quả đẹp, có màu sắc cơ bản, hấp dẫn
trẻ. Từ đó góp phần giáo dục dinh dưỡng cho trẻ, giúp trẻ biết tên các loại thực
phẩm trong tranh.
Biện pháp 8: Thực hiện rèn trẻ thường xuyên
Đặc điểm của trẻ nhỏ là học nhanh nhớ nhưng cũng nhanh quên, nếu
không được rèn thường xuyên thì trẻ sẽ không hình thành được thói quen và kỹ
năng. Để hình thành kỹ năng cho trẻ thì giáo viên phải rèn trẻ thường xuyên để
trẻ được trải nghiệm.
- Thông qua giờ ăn: Rèn kỹ năng tự phục vụ: Kê xếp bàn ăn, để bát, xếp
ghế đúng nơi quy định, giáo dục hành vi văn minh trong ăn uống,…
- Những nội dung giáo dục trẻ cần có kế hoạch cụ thể rèn thường xuyên
hàng ngày, chứ không phải ngẫu hứng.
Giáo viên và phụ huynh cần tạo cơ hội phát triển thói quen tốt trong ăn
uống của trẻ ở mọi lúc mọi nơi. Cần quan tâm đến hứng thú và sở thích riêng
của trẻ để lựa chọn biện pháp tác động hiệu quả.
Biện pháp 9: Biện pháp tuyên truyền
Công tác tuyên truyền đến phụ huynh cũng vô cùng quan trọng. Thực hiện
tuyên truyền tới các bậc phụ huynh trong trường về công tác nuôi dưỡng, chăm
sóc tr.l.......ẻ thông qua trao đổi hàng ngày, qua các góc tuyên truyền của lớp để
phụ huynh phối hợp với giáo viên nhằm hình thành một số thói quen tốt trong ăn
uống, vệ sinh cá nhân, giữ gìn sức khỏe và an toàn, những thói quen vận động
cần thiết cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ
12


Nội dung tuyên truyền thay đổi theo mùa, lựa chọn nội dung phong phú,

gần gũi với cuộc sống hàng ngày của trẻ. Qua đó giúp phụ huynh hiểu rõ tầm
quan trọng của bữa ăn đối với trẻ về mọi mặt [chất lượng-số lượng] và bổ sung
thêm kiến thức nuôi dạy con theo khoa học.
Tổ chức hướng dẫn nội dung đến toàn thể cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà
trường trong các cuộc họp hội đồng, sinh hoạt chuyên mô và đường email. Triển
khai nội dung tới các bậc phụ huynh trường thông qua trao đổi hàng ngày, qua
các góc tuyên truyền.
Tuyên truyền sâu rộng tới cộng đồng để phối hợp với nhà trường trong
việc hình thành một số thói quen tốt trong ăn uống, vệ sinh cá nhân, giữ gìn sức
khỏe và an toàn, những thói quen cần thiết cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ.
Tuyên truyền trên loa truyền thanh của nhà trường về cách nuôi dưỡng,
chăm sóc trẻ… nhằm củng cố thêm kiến thức cho phụ huynh, ví dụ:
Bài: Những nguyên nhân gây biếng ăn cho trẻ
Rất nhiều bà mẹ trẻ bày tỏ sự băn khoăn không hiểu tại sao con mình
biếng ăn, mặc dù bản thân đã cố gắng hết sức để chăm bẵm con và đã chú ý cho
con ăn đa dạng, đầy đủ, thơm ngon.
1. Thức ăn không hợp khẩu vị, không hợp với lứa tuổi của trẻ.
Một số ông bố bà mẹ cho rằng chỉ có một số loại thức ăn bổ và tốt với trẻ
như: Thịt, trứng, sữa, cá quả… và với niềm tin này, họ tích cực cho cục cưng ăn
các thức ăn bổ này hết ngày này qua ngày khác. Nếu cộng thêm kiểu nấu lặp đi
lặp lại thì việc trẻ biếng ăn là điều dễ hiểu.
Thực tế, trẻ cần ăn đa dạng các loại thức ăn, vì khi phối hợp nhiều loại
thực phẩm, chúng sẽ hỗ trợ cho nhau tạo nên khẩu phần cân đối, trẻ ăn sẽ ngon
miệng hơn, và dễ hấp thụ các chất dinh dưỡng hơn.
Ngoài thịt, trứng, sữa, phụ huynh nên cho trẻ ăn thêm đậu, đỗ vừng, lạc,
tôm, cua, lươn, rau xanh, quả chín… Khi trẻ còn bé từ 7-12 tháng thì nấu bột,
nấu cháo với các loại thức ăn đa dạng trong 4 nhóm thực phẩm [đạm, béo,
đường, vitamin và muối khoáng], nhưng khi trẻ lớn hơn [từ sau 12 tháng] đã có
đủ răng cửa và một số răng hàm nếu trẻ chán ăn bột, cháo thì có thể cho trẻ ăn
bún, phở, mì… nấu với các thực phẩm đa dạng.

2. Trẻ bị ép sẽ ăn theo một chế độ cứng nhắc, tạo nên tâm lý sợ ăn.
Do tâm lý sợ con đói, con còi, nên khi thấy bé ăn không hết bát bột, bát
cháo là nhiều bà mẹ cố nhồi, ép bé ăn cho đủ mỗi bữa. Nhiều lần như vậy, bé sẽ
chán và sợ ăn, dần dần hình thành phản xạ, nên cứ thấy bưng thức ăn ra là không
muốn ăn.
Chúng ta nên biết rằng khi trẻ có tâm lý thoải mái, vui thích, nhất là có
tâm lý ganh đua khi ăn thì kích thích các tuyến tiêu hoá, hoạt động, tăng bài tiết
men tiêu hoá giúp trẻ ăn ngon miệng hơn. Điều này lý giải tại sao nhà con đàn
“dễ nuôi” hơn con một.
13


Các ông bố, bà mẹ tạo nên điều kiện cho con mình hoà nhập với các bạn
cùng trang lứa trong vui chơi, sinh hoạt ăn uống để tạo cho trẻ có tâm lý chia sẻ
và ganh đua sẽ giúp trẻ thích ăn hơn.
3. Trẻ hay ăn uống vặt và không được ăn đúng bữa.
Ăn các loại bánh kẹo, nước ngọt trước bữa ăn sẽ làm tăng đường huyết và
gây cảm giác “no giả tạo” nhưng thực chất là trẻ vẫn đói và vẫn bị thiếu dinh
dưỡng. Do vậy, chỉ cho trẻ ăn, uống đồ ngọt sau bữa ăn với số lượng hạn chế.
Nên cho trẻ ăn đúng giờ giấc mỗi ngày.
4. Nhiễm ký sinh trùng đường ruột.
Trẻ bị nhiễm ký sinh trùng đường ruột như giun đũa, giun móc, giun
kim… thường chán ăn và gầy yếu, xanh xao. Nên tẩy giun cho trẻ theo định kỳ 6
tháng một lần và giữ vệ sinh trong ăn uống, nơi ở cho trẻ.
5. Thiếu một số vitamin.
Các vitamin A,B,C… và một số yếu tố vi lượng [sắt, kẽm…] tham gia
hình thành các men tiêu hoá và quá trình chuyền hoá, hấp thu thức ăn. Các chất
dinh dưỡng này có trong thức ăn động vật [thịt, trứng, cá …] và thức ăn thực vật
[đỗ, đậu, rau quả và ngũ cốc] nhưng do trẻ lười ăn, ăn ít hoặc ăn kiêng, nên bị
thiếu.

Việc bổ sung vitamin và vi chất dinh dưỡng dưới dạng polyvitamin theo
đúng chỉ dẫn của bác sĩ có thể cải thiện được tình trạng chán ăn của trẻ. Tuy
nhiên, không nên dùng thuốc kéo dài vì sẽ thừa và có hại đến sức khoẻ của trẻ.
6. Trẻ đang bị bệnh.
Khi trẻ bị bệnh như viêm đường hô hấp trên, viêm phế quản, tiêu chảy,
viêm tai giữa… thì sẽ mệt mỏi và chán ăn.
Chăm sóc ăn uống cho trẻ lúc này rất quan trọng, giúp trẻ mau khỏi bệnh
và bình phục.
Khi trẻ ốm, cần cho ăn các thức ăn chế biến mềm, giàu chất dinh dưỡng.
Chọn loại thức ăn mà trẻ ưa thích và kiên trì dỗ dành cho trẻ ăn ít một, ăn
làm nhiều bữa.
Nếu bé của bạn biếng ăn không do các nguyên nhân trên thì có thể nghĩ
tới bé lười ăn do thiếu men tiêu hoá.
Trẻ bị thiếu men tiêu hoá phân thường không mịn, có những hạt trắng lổn
nhổn, gọi là “phân sống”. Bình thường, trong cơ thể trẻ có rất nhiều loại men
tiêu hoá để giúp cơ thể tiêu hoá và hấp thụ các loại thức ăn làm cho trẻ chóng
đói, muốn ăn và ăn ngon miệng.
Nếu bị thiếu men tiêu hoá, phụ huynh có thể cho trẻ uống thêm men tiêu
hoá theo sự chỉ dẫn của bác sĩ.
Tuy nhiên, chỉ nên cho trẻ dùng men tiêu hoá trong một thời gian ngắn [từ
1-2 tuần]
14


Không nên cho trẻ dùng men tiêu hoá kéo dài, vì sẽ gây ức chế các tuyến
tiêu hoá trong cơ thể sản xuất men. Với trẻ sau 6 tháng, hàng ngày nên cho trẻ
ăn thêm sữa chua.
Muốn cho trẻ hay ăn, chóng lớn, cần quan tâm chăm sóc trẻ một cách tỉ
mỉ, khoa học, tạo cho trẻ những bữa ăn đủ dinh dưỡng, ngon miệng. Khi trẻ
biếng ăn, cần bình tĩnh tìm hiểu nguyên nhân để khắc phục. Cần dặc biệt chú ý

đến yếu tố tâm lý của trẻ.
* Hạn chế cho trẻ ăn quà vặt, ít ăn ngọt.
Những bé thường xuyên ăn quà vặt hoặc đồ ngọt thì thường không có cảm
giác đói, không thèm ăn. Hơn nữa đường tiêu hoá luôn ở trạng thái làm việc,
không có cơ hội nghỉ ngơi, dễ bị rối loạn tiêu hóa.
- Các bậc phụ huynh cho trẻ ăn no trước khi đến lớp, không cho con mang
quà đến lớp.
- Tuyên truyền với phụ huynh về tác hại của một số loại quà vặt không tốt
cho sức khỏe của trẻ như: bim bim, tăm cay Trung Quốc, kẹo có phẩm màu, chất
hóa học.
8. Những thông tin cần được bảo mật
Không có
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Để thực hiện được tốt sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp rèn thói
quen ăn uống cho trẻ mẫu giáo 3- 4 tuổi ở trường mầm non”. Trong lớp của
mình nói riêng, trong khối 3 tuổi thì cần phải có các điều kiện cần thiết sau:
+ Về cơ sở vật chất: Đảm bảo các điều kiện về đồ dùng, đồ chơi, tài liệu,
học liệu cho trẻ.
+ Cô giáo phải nắm vững chuyên môn, phải nghiên cứu kỹ nội dung, luôn
xây dựng những tiết dạy sáng tạo, hấp dẫn…. và nắm rõ về tâm sinh lý của từng
trẻ trong lớp.
+ Trẻ cùng độ tuổi, đủ và đúng số lượng qui định
- Trong công tác giảng dạy, người giáo viên phải yêu nghề mến trẻ, luôn
tìm tòi các biện pháp áp dụng phù hợp, mới để tạo hứng thú cho trẻ thực hiện
các kỹ năng .
+ Đồng thời cần sự ủng hộ cả về tinh thần, cơ sở vật chất từ phía đồng
nghiệp, ban giám hiệu và phụ huynh học sinh.
10. Kết quả thu được sau khi áp dụng sáng kiến.
Qua áp dụng những biện pháp trên vào việc rèn thói quen tốt trong ăn
uống cho trẻ tại lớp 3 tuổi B, tôi đã thu được những kết quả như sau:

* Đối với giáo viên
- Giáo viên nắm chắc nội dung, phương pháp rèn kỹ năng tốt trong ăn uống
cho trẻ.
15


- Giáo viên đã tạo được môi trường học tập và vui chơi cho trẻ trong và
ngoài lớp một cách khoa học.
- Biết cách tổ chức tiết học linh hoạt phù hợp với tình hình thực tế của địa
phương, của trường, của lớp.
- Lồng ghép nội dung rèn thói quen tốt trong ăn uống cho trẻ thông qua
các hoạt động khác một cách phù hợp.
- Khẳng định được vị thế của mình trong trường cũng như đối với ngành học.
* Đối với phụ huynh
- Nhận thấy được tầm quan trọng của việc rèn thói quen tốt trong ăn uống
đối với trẻ.
- Quan tâm, trò chuyện với con nhiều hơn để uốn nắn trẻ kịp thời.
- Không chỉ quan tâm đến việc học tập của con mà nhiều các bậc phụ
huynh còn tham gia đóng góp kinh phí, ủng hộ nguyên vật liệu, ngày công trong
việc xây dựng môi trường học, mua sắm cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng,
đồ chơi ở nhóm lớp phục vụ cho công tác học và chơi của trẻ.
- Phụ huynh rất yên tâm khi gửi con ở lớp, ở trường và cũng rất phấn
khởi trước sự tiến bộ rõ rệt của con.
* Đối với trẻ
- Qua thời gian nghiên cứu và áp dụng vào thực tế bản thân tôi thấy hiệu
quả đạt rất cao. Các cháu đã đi vào nề nếp, không còn tình trạng mang quà vặt
đến lớp.
- Trên 90% trẻ ăn hết xuất, ngoan ngoãn, nghe lời cô giáo và bố mẹ.
- Trẻ thích được đi học, đến lớp với các bạn, không còn sợ hãi khi đến
giờ ăn...

- Trẻ mạnh dạn tham gia các hoạt động, tự tin hơn vào bản thân;
+ Biết hợp tác cùng nhau thực hiện nhiệm vụ.
+ Hình thành một số hiểu biết về ích lợi của việc rèn thói quen tốt trong
ăn uống đối với sự phát triển cơ thể và bảo vệ sức khỏe.
Biểu 5: KÕt qu¶ khảo sát chất lượng trẻ sau khi sử dụng các biện pháp
đối với trẻ lớp 3 tuổi B trường Mầm non Hợp Hòa
Nội dung

Trước khi áp
dụng các biện pháp

Sau khi áp dụng
các biện pháp

Trẻ

Tỉ lệ %

Biết tự xúc ăn

13/29

44%

27/29

93%

Tăng 44%


Xúc ăn gọn gang

10/29

34%

26/29

89%

Tăng 55%

Biết ăn các loại thức ăn 15/29

51%

28/29

96%

Tăng 45%

48%

27/29

93%

Tăng 44%


Ăn hết xuất
16

14/29

Trẻ

So sánh

Tỉ lệ %


Biểu 6: KÕt qu¶ khảo sát chất lượng trẻ sau khi sử dụng các biện pháp
đối với trẻ lớp 3 tuổi A2 trường Mầm non Hướng Đạo
Nội dung

Trước khi áp
dụng các biện pháp

Sau khi áp dụng
các biện pháp

Trẻ

Tỉ lệ %

Biết tự xúc ăn

11/27


40%

24/27

89%

Tăng 49%

Xúc ăn gọn gang

9/27

33%

23/27

85%

Tăng 52%

Biết ăn các loại thức ăn 12/27

44%

26/27

96%

Tăng 52%


Ăn hết xuất

37%

25/27

92%

Tăng 55%

10/27

Trẻ

So sánh

Tỉ lệ %

Từ bảng so sánh kết quả chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy được kết quả
trên trẻ khá cao, điều đó chứng tỏ các biện pháp mà tôi đưa ra là phù hợp và
mang lại hiệu quả thiết thực.
Những giải pháp đưa ra được áp dụng trong việc rèn thói quen tốt trong
ăn uống cho trẻ là đáng kể. Tạo môi trường giáo dục tốt cho trẻ, giúp phụ huynh
yên tâm, tin tưởng gửi con trong môi trường giáo dục tích cực. Như vậy sẽ tiết
kiệm được tiền của và thời gian cho các bậc phụ huynh. Mặt khác, góp phần hình
thành nhân cách cho trẻ, giúp trẻ trở nên mạnh dạn tự tin, thân thiện với mọi người
xung quanh. Bản thân giáo viên không ngừng tự học tập, bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ để nâng cao tay nghề, thực hiện tốt công tác nuôi dưỡng chăm sóc trẻ.
Đề tài được ban giám hiệu nhà trường cũng như tập thể giáo viên ủng hộ
nhiệt tình và được đánh giá cao, tập thể giáo viên đánh giá đây là nội dung rất

thiết thực trong tình hình hiện nay. Việc đưa ra những biện pháp rèn thói quen
tốt trong ăn uống cho trẻ còn được các bậc phụ huynh ủng hộ nhiệt tình, phụ
huynh yên tâm và tin tưởng khi gửi con em trong trường, từ đó thu hút được trẻ
đến trường.
Đây là địa chỉ để các giáo viên khác trong nhà trường học tập và phát huy
các biện pháp rèn thói quen tốt trong ăn uống cho trẻ.
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến
lần đầu
Số Tên tổ chức/cá
TT Nhân

Địa chỉ

Phạm vi/Lĩnh vực
áp dụng sáng kiến

1 Nguyễn Thị Thảo Lớp 3 - 4 tuổi B Phạm vi: Sáng kiến được áp
trường Mầm non dụng cho nhóm trẻ tại trường và
Hợp Hòa - Tam có thể nhân rộng ra các trường
17


Nguyễn Thị Anh

Dương – Vĩnh Phúc MN trong toàn huyện.
Lớp 3 - 4 tuổi A2 Lĩnh vực: Chăm sóc, nuôi
trường Mầm non dưỡng trẻ 3- 4 tuổi.
Hướng Đạo - Tam
Dương – Vĩnh Phúc


Hợp Hòa, ngày 25 tháng 02 năm 2019
Xác nhận của Thủ trưởng đơn vị
HIỆU TRƯỞNG

Trương Thị Hiền

Hợp Hòa, ngày 25 tháng 2 năm 2019.
Tác giả sáng kiến

Nguyễn Thị Thảo

NHỮNG TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trinhg giáo dục mầm non.TS trần
Thị Ngọc Trâm- TS Lê Thu Hương-PGS.TS Lê Thị Ánh Tuyết- NXB Giáo Dục
Việt nam.
2/ Tài liệu nâng cao chất lượng VSATTP.
3/Tài liệu hướng dẫn tuyên truyền giáo dục sức khỏe- Sở GD&ĐT Vĩnh
Phúc- Tháng 7/2008.
4/ Giáo dục dinh dưỡng trẻ em- TH.S.GVC Lưu Chí Thắng- Trường ĐHSP
Thái Nguyên.- Năm 2005
5/ Mođun QL4- Tổ chức bữa ăn và nâng cao chất lượng bữa ăn cho trẻ tại
trường mầm non.
6/ Tài liệu Vệ sinh dinh dưỡng dùng cho trẻ mầm non- trung tâm giới thiệu
việc làm Vĩnh Phúc năm 2013.
Tài liệu hướng dẫn bồi dưỡng thường xuyên.
Các tài liệu có liên quan đến giáo dục mầm non.
Các tạp chí, tập san mầm non.

18




Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng có thói quen ăn uống

Trẻ chỉ có thể phát triển, khoẻ mạnh, thông minh có nề nếp, khi được sống trong môi trường thật sự yêu thương chăm sóc và chú ý khuyến khích giúp đỡ của người lớn. » Xem thêm

» Thu gọn
Chủ đề:
  • Giúp trẻ có thói quen ăn uống
  • Chăm sóc sức khỏe cho trẻ
  • Kinh nghiệm dạy trẻ 24 tháng tuổi
  • Sáng kiến kinh nghiệm mầm non
  • Sáng kiến kinh nghiệm mẫu giáo
  • Sáng kiến kinh nghiệm
Download
Xem online

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO QUẬN CẦU GIẤY TRƯỜNG MẦM NON HOẠ MY ------------ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ 24 -36 THÁNG CÓ THÓI QUEN TRONG ĂN UỐNG. Giáo viên : Trần Thị Bích Hạnh Lớp : B2 - Trường Mầm Non Hoạ My NĂM HỌC 2006-2007. 0
  2. I. ĐẶT VẤN ĐỀ. Trong một lớp học có bao nhiêu trẻ thì có bấy nhiêu sự khác biệt cá nhân. Những sự khác biệt này bao gồm cả về thể chất, năng lực, trí lực, xu hướng, hứng thú. Và tất cả các trẻ đều có quyền đòi hỏi được quan tâm đáp ứng nhu cầu của bản thân. Bên cạnh đó các nhà giáo dục cũng thấy rằng về bản chất, phạm vi năng lực tiềm tàng của trẻ rộng hơn rất nhiều so với những gì chúng thể hiện ở lớp. Và để có thể làm bộc lộ năng lực tiềm ẩn này, trẻ cần có một môi trường học tập cho phép chúng được học tập mọi lúc, mọi nơi, học theo nhiều cách khác nhau. Để nuôi dưỡng trí thông minh là chăm sóc bảo vệ và kích thích trẻ trong quá trình sinh trưởng. Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng trẻ có kinh nghiệm học từ những ngày đầu tiên của cuộc đời. Vì vậy sự nuôi dưỡng trí lực của trẻ có thể bắt đầu ngay sau khi trẻ sinh ra. Đó là một quá trình lâu dài đòi hỏi rất nhiều sự âu yếm, kiên trì, hiểu biết về chăm sóc và dạy bảo của cha mẹ, ông bà và cô giáo. Khi trẻ đến lớp, mỗi trẻ là một cơ thể duy nhất, do đó trẻ sẽ hành động trong một môi trường theo cách của mình. Chính vì vậy cô giáo cần tạo cho trẻ có một tâm thế tốt khi đến lớp, một không khí tình cảm yêu thương, tôn trọng trẻ. Điều này giúp trẻ nghe lời cô và phát triển khả năng bẩm sinh sẵn có của mình. Trẻ chỉ có thể phát triển, khoẻ mạnh, thông minh có nề nếp, khi được sống trong môi trường thật sự yêu thương chăm sóc và chú ý khuyến khích giúp đỡ của người lớn. Đúng vậy, trong những năm qua ngành giáo dục thành phố Hà Nội đã có những biện pháp chỉ đạo có hiệu quả tuyên truyền và giáo dục tại các trường Mầm non. Đặc biệt sau khi thực hiện chuyên đề "Nâng cao chất lượng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm" đã thu được kết quả rất cao. Bên cạnh đó việc dạy cho trẻ có những thói quen nề nếp trong ăn uống là một việc làm vô cùng quan trọng trong việc nuôi dạy giáo dục trẻ ở trường. Thông qua việc làm này đã góp phần giúp trẻ có một thói quen tốt trong ăn uống, trong sinh hoạt, đồng thời giúp trẻ 1
  3. phát triển, củng cố những tố chất vận động, sự khéo léo, tính kiên trì, kỷ luật…. do đó góp phần quan trọng trong việc hình thành nhân cách mới cho trẻ. Nếu trẻ có một thói quen ăn uống xấu không những ảnh hưởng đến ham muốn ăn uống mà còn ảnh hưởng đến sự hấp thụ dinh dưỡng cho nên khi trẻ đến lớp, giáo viên nhất thiết phải chú ý, bồi dưỡng thói quen ăn uống tốt cho trẻ từ nhỏ. Chính vì vậy tôi chọn đề tài "Một số biện pháp giúp trẻ từ 24 -36 tháng có thói quen tốt trong ăn uống” II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. 1. Đặc điểm chung. Đầu năm lớp tôi có 30 trẻ - 2 giáo viên. Trong quá trình chăm sóc và dạy trẻ chúng tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau: a. Thuận lợi: - Nhà trường đầu tư đầy đủ đồ dùng cơ sở vật chất phục vụ cho việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ. Ban giám hiệu thường xuyên chỉ đạo sát xao việc tổ chức chăm sóc, thực hiện quy chế chuyên môn. - Bản thân tôi là một giáo viên tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm nhà trẻ Mẫu giáo rất yêu nghề, mến trẻ, có nhiều kinh nghiệm chăm sóc và giáo dục trẻ. - Phụ huynh rất nhiệt tình, quan tâm đến bữa ăn của trẻ. b. Khó khăn: - Lớp có 91% trẻ mới đi học lần đầu chưa có có ý thức, đa số trẻ thích làm gì làm đấy, không có nề nếp trong mọi hoạt động. - Trong giờ ăn trẻ còn có nhiều thói quen xấu. Bốc thức ăn gõ bát, uống nước canh … hay còn ngậm cơm, kén chọn thức ăn.. - Một số phụ huynh nhận thức sai cho rằng: Trẻ quá nhỏ để đưa vào nề nếp và cần phải cho trẻ ăn những thứ trẻ thích miễn sao ăn nhiều. Đặc biệt giữa pH chưa có sự phối hợp cùng giáo viên để dạy trẻ có một thói quen trong ăn uống. Xuất phát từ thực trạng này một lần nữa tôi khẳng định nhất thiết phải đưa ra một số biện pháp: "Giúp trẻ có thói quen tốt trong ăn uống” 2
  4. 2. Một số biện pháp. Biện pháp 1: Ăn uống đúng vị trí, thời gian, số lượng, sắp xếp hợp lý số bữa ăn mỗi ngày. *Biện pháp này rất quan trọng vì như thế khi ốm bé hình thành phản xạ có điều kiện, đến giờ ăn nhất định, vị trí môi trường đã định, thì đại não sẽ chỉ huy các cơ quan tổ chức toàn thân làm tốt công việc chuẩn bị vào bữa tiếp thu thức ăn. VD: Tiết nước bọt tăng, đường dạ dày bắt đầu nhu động, các loại men tiêu hoá do đường tiêu hoá tiết ra tăng lên, khiến bé tăng cảm giác đói. Có được chuẩn bị về tâm lý, sinh lý này thì bé có thể ăn được một cách chủ động ăn chăm chú, ngon miệng. * Để biện pháp này có hiệu lực quả của tôi đã biết phối hợp với giáo viên trong lớp nghiêm túc thực hiện chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ [không cắt xén, thay đổi tùy tiện] thực hiện đúng thời gian ăn theo quy định. Có như thế mới tạo cho trẻ thói quen tốt giờ nào việc ấy. Bên cạnh đó tôi còn phối hợp các cô giáo trong tổ nuôi còn phối hợp tuyên truyền với pH để có những ngày nghỉ ở nhà pH cũng làm theo thời gian biểu ở lớp. Có như vậy quá trình rèn luyện của trẻ mới không bị ngắt quãng, ngắt giai đoạn. Việc làm này đã làm tăng sự gần gũi giữa gia đình và lớp trong việc tạo nên thói quen tốt cho trẻ. Biện pháp 2: Động viên trẻ tự xúc ăn, cố gắng tập cho trẻ sớm sử dụng thìa, đũa để nâng cao hứng thú ăn cho bé. Thật vậy, cứ đến bữa ăn của gia đình mà trẻ được ngồi cùng mâm, cũng có bát thìa để ăn thì bé thích lắm, chúng luôn tay sử dụng thìa để xúc cơm, thức ăn [mặc dù được ít]. Một số phụ huynh sự con bẩn nên không cho trẻ dùng bát thìa hoặc tự xúc như vậy vô tình chúng ta đã kìm hãm ham muốn ăn uống của trẻ. Để trẻ tập xúc ăn còn khi ăn nên xới cho trẻ một ít ăn trước, ăn hết lại xới thêm, để tăng thêm lòng tin ăn uống cho bé. Tránh ép bé ăn, để tránh sinh ra bực bội mà trẻ chán ăn. 3
  5. - Phối hợp với giáo viên trong lớp cùng dạy trẻ, kiên trì như hướng dẫn trong giờ ăn. - Kết hợp với phụ huynh khi về nhà cũng dạy trẻ tập xúc ăn như ở lớp. Có như vậy việc dạy trẻ của cô giáo mới có kết quả cao. VD: Khi dạy trẻ tập xúc cơm cô nói con cầm thìa xúc cơm thật khéo như vậy tay con dẻo như diễn viên múa, mai sau con sẽ múa dẻo, đẹp và được đi biểu diễn ở nhiều nơi được nhiều người biết đến và yêu quý. Biện pháp 3: Tạo không khí vào bữa ăn nhẹ nhàng, vui vẻ, khiến bé giữ được tình cảm vui vẻ, yên tĩnh nhẹ nhõm. Cũng như người lớn việc tạo cảm giác thiếu thú trước khi ăn là vô cùng quan trọng, không thể thiếu được vì nếu trước bữa ăn mà buồn, chán thì trong suốt bữa ăn đó trẻ cũng không vui vẻ luôn ở trạng thái uể oải, không tập trung. Do đó trước giờ ăn tôi thường kể cho trẻ nghe những câu truyện vui, liên quan đến cách ăn uống mang tính giáo dục cao hoặc cho trẻ đọc thơ, hát vui vẻ. Không những thế trong lúc còn tôi cùng giáo viên trong lớp luôn dùng lời lẽ nhẹ nhàng động viên khen ngợi kịp thời mỗi khi trẻ ăn ngoan, nghe lời cô. Và cũng như vậy tôi tuyên truyền tới từng phụ huynh về cách làm này để phụ huynh hưởng ứng và giúp đỡ cô thêm những lúc ở nhà. Biện pháp 4: Các biện pháp khác * Vận động phụ huynh cố gắng cho con ăn ít thậm chi không ăn quà vặt, ít ăn ngọt. Những bé thường xuyên ăn quà hoặc đồ ngọt thì thường thiếu cảm giác đói, không thèm ăn. Hơn nữa đường tiêu hoá cứ ở trạng thái làm việc không có cơ hội nghỉ ngơi, dễ xuất hiện công năng đường tiêu hoá rối loạn. - Theo thực tế ở lớp tôi đầu năm học các cháu thường hay mang quà bánh đến lớp phần lớn là kẹo, bim bim, bánh ngọt…. 4
  6. - Mặt khác được phụ huynh trao đổi là ở nhà cháu lười ăn, thời gian ăn quá dài từ 1,5h - 2h /bữa. - Đến giờ ăn ở lớp trẻ ăn rất ít phần lớn là ngậm cơm, bỏ xuất. Nắm được tình hình này tôi đã trao đổi với phụ huynh, vận động phụ huynh phối hợp cùng cô giáo dạy trẻ. + Bước đầu tôi yêu cầu phụ huynh không cho con mang quà vào lớp, cô giáo tìm hình thức khác nhau để dỗ trẻ như: trò chuyện chơi cùng trẻ như một người bạn, gần gũi trao đổi để đáp ứng nhu cầu chơi mà học của trẻ. + Kéo dài giờ ăn hơn đối vớit trẻ ăn chậm, lười ăn. VD. Đối với những trẻ ăn bình thường với tiêu chuẩn 2 bát cơm/ 1 bữa nhưng với những trẻ lười ăn, cũng tiêu chuẩn đó tôi chia ra làm những phần nhỏ để trẻ ăn ít một, hết lại lấy thêm. Trong khi ăn, tôi còn động viên trẻ kịp thời nói cho trẻ biết nếu ăn ngoan, hết xuất rẽ rất xinh học giỏi được cô yêu… Truy trẻ ăn hơi lâu hơn các bạn tôi không hề thúc giục mà cứ để trẻ ăn từ từ nhai kỹ nhưng có những khích lệ kịp thời để trẻ ăn nhanh hơn bạn khác. + Phân công giáo viên phụ trách từng trẻ lười ăn, ăn chậm từ đó nắm được đặc điểm riêng cá tính của từng trẻ. Đúng như vậy nhờ sự sát xao tới từng trẻ của từng cô giáo trong lớp mà tôi đã biết được cá tính riêng của từng trẻ và kịp thời điều chỉnh. VD: Cháu Long hay ngậm cơm, nhả bã thịt, cháu Trung hay uống nước canh, cháu Chi chỉ ăn được một miếng cơm rất bé.. Đối với những cháu này trước giờ ăn tôi thường kể cho trẻ nghe một số câu chuyện nói về các bạn có những nết ăn cháu trong lớp qua đó giáo dục trẻ. Bên cạnh đó tôi còn hướng dẫn phụ huynh cách chăm sóc con ở nhà [những ngày nghỉ hoặc buổi chiều về] . VD: Tôi đưa tới tận tay từng phụ huynh có con lười ăn chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ đặc biệt nhấn mạnh giờ ăn các buổi cho phụ huynh rõ. 5
  7. Đồng thời tôi cung cấp cho phụ huynh những tài liệu nói về TD của hoa quả đối với bữa ăn của trẻ như thế nào và thời điểm nào cho trẻ ăn hoa quả là hợp lý nhất. Bằng nhiều hình thức trên tôi đã được phụ huynh phản ánh là nhờ sự giúp đỡ hướng dẫn của cô giáo mà kết quả các bữa ăn của con tôi ở nhà có tiến bộ rõ rệt  trong bữa ăn trẻ ăn được nhiều hơn. * Tạo môi trường lớp học phong phú - Luôn tạo môi trường lớp học phong phú với những mảng từng gây sự tò mò cho trẻ đặc biệt là những bức tranh về ăn uống. Do đó giáo dục trẻ liên hệ thực tế trong bữa ăn của mình. 6
  8. Ảnh minh hoạ tạo môi trường lớp học Ví dụ : Trong chủ điểm gia đình tôi trang trí lớp bằng những tranh ngộ nghĩnh đang ngồi ăn rất ngoan , hay ở chủ điểm thực vật tôI lại trang trí lớp bằng những bức tranh rau hoa quả đẹp có màu sắc cư bản hấp dẫn trẻ. Chính vì vậy đã góp phần giáo dục trẻ rất tốt trong bữa ăn. * Xây dựng góc tuyên truyền của lớp : Nội dung tuyên truyền thay đổi theo mùa đặc biệt là rất phong phú về nội dung các bài, gần gũi với cuộc sống. Qua đó đã giúp phụ huynh hiểu rõ hơn tầm quan trọng của bữa ăn đối với trẻ về mọi mặt [chất lượng - số lượng] và bổ sung thêm kiến thức về nuôi dạy con. 7
  9. Ảnh minh hoạ góc tuyên truyền lớp * Phối hợp với nhà trường : Tuyên truyền trên loa truyền thanh của trường những bài nói về dinh dưỡng, cách chăm sóc con hoặc những bài thuốc hay  củng cố thêm kiến thức cho phụ huynh, từ đó một lần nữa cô giáo trong trường cũng được học tập và hiểu thêm về nhiệm vụ, công việc nuôi dạy trẻ. Sau đây là một số bài viết minh hoạ: Bài 1: Vì sao trẻ biếng ăn? Rất nhiều bà mẹ trẻ bày tỏ sự băn khoăn không hiểu tại sao con mình biếng ăn, mặc dù bản thân đã cố gắng hết sức để chăm bẵm con và đã chú ý cho con ăn đa dạng, đầy đủ, thơm ngon. 1. Thức ăn không hợp khẩu vị, không hợp với lứa tuổi của trẻ. Một số ông bố bà mẹ cho rằng chỉ có một số loại thức ăn bổ và tốt với trẻ như: Thịt, trứng, sữa, cá quả… và với niềm tin này, họ tích cực cho cục cưng ăn các thức ăn bổ này hết ngày này qua ngày khác. Nếu cộng thêm kiểu nấu lặp đi lặp lại thì việc trẻ biếng ăn là điều dễ hiểu. Thực tế, trẻ cần ăn đa dạng các loại thức ăn, vì khi phối hợp nhiều loại thực phẩm, chúng sẽ hỗ trợ cho nhau tạo nên khẩu phần cân đối, trẻ ăn sẽ ngon miệng hơn, và dễ hấp thụ các chất dinh dưỡng hơn. Ngoài thịt, trứng, sữa, phụ huyh nên cho trẻ ăn thêm đậu, đỗ vừng, lạc, tôm, cua, lươn, rau xanh, quả chín… Khi trẻ còn bé từ 7-12 tháng thì nấu bột, nấu cháo với các loại thức ăn đa dạng trong 4 nhóm thực phẩm [đạm, béo, đường, vitamin và muối khoáng], nhưng khi trẻ lớn hơn [từ sau 8
  10. 12 tháng] đã có đủ răng cửa và một số răng hàm nếu trẻ chán ăn bột, cháo thì có thể cho trẻ ăn bún, phở, mì… nếu với các thực phẩm đa dạng. 2. Trẻ bị ép sẽ ăn theo một chế độ cứng nhắc, tạo nên tâm lý sợ ăn. Do tâm lý sợ con đói, con còi, nên khi thấy bé ănko hết bát bột, bát cháo là nhiều bà mẹ cố nhồi, ép bé ăn cho đủ mỗi bữa. Nhiều lần như vậy, bé sẽ đam ra chán và sợ ăn, dần dần hình thành phản xạ, nên cứ thấy bưng thức ăn ra là không muốn ăn. Chúng ta nên biết rằng khi trẻ có tâm lý thoải mái, vui thú, nhất là có tâm lý ganh đua khi ăn thì kích thích các tuyến tiêu hoá, hoạt động, tăng bài tiết men tiêu hoá giúp trẻ ăn ngon miệng hơn. Điều này lý giải tại sao nhà con đàn "dễ nuôi" hơn con một. Các ông bố, bà mẹ tạo nên điều kiện cho con mình hoà nhập với các bạn cùng trang lứa trong vui chơi, sinh hoạt ăn uống để tạo cho trẻ có tâm lý chia sẻ và ganh đua sẽ giúp trẻ thích ăn hơn. 3. Trẻ hay ăn uống vặt và không được ăn đúng bữa. ăn các loại bánh kẹo, nước ngọt trước bữa ăn sẽ làm tăng đường huyết và gây cảm giác "no giả tạo" nhưng thực chất là trẻ vẫn đói và vẫn bị nhiễm dinh dưỡng. Do vậy, chỉ cho trẻ ăn, uống đồ ngọt sau bữa ăn với số lượng hạn chế. Nên cho trẻ ăn đúng giờ giấc mỗi ngày. 4. Nhiễm ký sinh trùng đường ruột. Trẻ bị nhiễm ký sinh trùng đường ruột như giun đũa, giun móc, giun kim… thường chán ăn và gầy yếu, xanh xao. Nên tẩy giun cho trẻ theo định kỳ 6 tháng một lần và giữ vệ sinh trong ăn uống, nơi ở cho trẻ. 5. Thiếu một số vitamin. Các vitamin A,B,C… và một số yếu tố vi lượng [sắt, kẽm…] tham gia hình thành các men tiêu hoá và quá trình chuyền hoá, hấp thu thức ăn. Các chất dinh dưỡng này có trong thức ăn động vật [thịt, trứng, cá …] và thức ăn thực vật [đỗ, đậu, rau quả và ngũ cốc] nhưng do trẻ lười ăn, ăn ít hoặc ăn kiêng, nên bị thiếu. 9
  11. Việc bổ sung vitamin và vi chất dinh dưỡng dưới dạng polyvitamin theo đúng chỉ dẫn của bác sĩ có thể cải thiện được tình trạng chán ăn của trẻ. Tuy nhiên, không nên dùng thuốc kéo dài vì sẽ thừa và có hại đén sức khoẻ của trẻ. 6. Trẻ đang bị bệnh. Khi trẻ bị bệnh như viêm đường hô hấp trên, viêm phế quản, tiêu chảy, viêm tai giữa… thì sẽ mệt mỏi và chán ăn. Chăm sóc ăn uống cho trẻ lúc này rất quan trọng, giúp trẻ mau khỏi bệnh và bình phục. Khi trẻ ốm, cần cho ăn các thức ăn chế biến mềm, giàu chất dinh dưỡng. Chọn loại thức ăn mà trẻ ưa thích và kiên trì dỗ dành cho trẻ ăn ít một, ăn làm nhiều bữa. Nếu bé của bạn biếng ăn không do các nguyên nhân trên thì có thể nghĩ tới bé lười ăn do thiếu men tiêu hoá. Trẻ bị thiếu men tiêu hoá phân thường không mịn, có những hạt trắng lổn nhổn, gọi là "phân sống". Bình thường, trong cơ thể trẻ có rất nhiều loại men tiêu hoá để giúp cơ thể tiêu hoá và hấp thụ các loại thức ăn làm cho trẻ chóng đói, muốn ăn và ăn ngon miệng. Nếu bị thiếu men tiêu hoá, phụ huynh có thể cho trẻ uống thêm men tiêu hoá theo sự chỉ dẫn của bác sĩ. Tuy nhiên, chỉ nên cho trẻ dùng men tiêu hoá trong một thời gian ngắn [từ 1-2 tuần] Không nên cho trẻ dùng men tiêu hoá kéo dài, vì sẽ gây ức chế các tuyến tiêu hoá trong cơ thể sản xuất men. Với trẻ sau 6 tháng, hàng ngày nên cho trẻ thêm sữa chua [yaourt] Muốn cho trẻ hay ăn, chóng lớn, cần quan tâm chăm sóc trẻ một cách tỉ mỉ, khoa học, tạo cho trẻ những bữa ăn đủ dinh dưỡng, ngon miệng. 10
  12. Khi trẻ biếng ăn, cần bình tĩnh tìm hiểu nguyên nhân để khắc phục. Cần dặc biệt chú ý đến yếu tố tâm lý của trẻ. Bài 2: Bạn cần làm gì khi trẻ biếng ăn? Việc cho bé ăn là một nghệ thuật thực sự: Nhiều lần bạn đặt câu hỏi vì sao con người ta thì ăn uống dễ dàng thế kia còn con mình phải dùng đủ các biện pháp mà vẫn chẳng chịu ăn bạn cần làm gì khi trẻ biếng ăn. Những lời khuyên dưới đây giúp ban khắc phục tình trạng biếng ăn của trẻ. Nếu con ban ăn ít hơn những đứa trẻ khác, nhưng con bạn vẫn phát triển bình thường thì bạn không có gì phải lo lắng. Con bạn hầu như không đói. Thật vậy! Bọn trẻ sinh ra với bản năng sinh tồn, điều đó khiến cho chúng ăn những cái mà cơ thể chúng cần với một lượng nhất định. Do đó bạn nên chấm dứt chế độ độc tài bên bàn ăn. Hãy để cho trẻ quyết định nó sẽ ăn gì. Mặt khác, dạ dày của trẻ nhỏ hơn của người lớn rất nhiều nên khẩu phần ăn của chúng nhiều nhất chỉ bằng một nửa của người lớn. Biếng ăn thường gặp ở trẻ 2,3 tuổi. ở độ tuổi này trẻ bắt đầu muốn khảng định mình. Bé để ý thấy những gì nó làm, nó nói đều tác động đến những người xung quanh. Giờ đây bé muốn thử "tự vệ". Bạn hãy cố gắng đừng để lộ ra là bé phải ăn hết bát cơm vì như vậy dễ xảy ra điều ngược lại khi trẻ muốn "tự khảng định mình". Dần dần rồi bé sẽ hiểu ra rằng nó không ăn chỉ để mẹ vui, mà vì để không bị đói. Sự biếng ăn của trẻ đôi khi lại xuất phát từ những nguyên nhân khác. Thông thường khi nấu nướng, bạn chế biến món ăn theo khẩu vị của mình. Nghĩa là bạn nấu món ăn mà chính bạn thích. Nhưng biết đâu, bé lại có khẩu vị hoàn toàn khác và cái món "chủ lực" của bạn thì bé lại ghét cay ghét đắng? - Bạn chỉ nên gợi ý cho bé ăn khi nó đói. Trẻ em thường chối bỏ thức ăn chẳng qua vì chúng chưa kịp đói. Thằng bé lười ăn của bạn hình như không bao giờ thấy đói? Cũng có thể do bạn không cho bé cơ hội ấy? Bạn 11
  13. hãy thử trong vài ngày liền không liên tục ép bé ăn. Hãy đợi để tự bé phải nhắc tới bữa ăn. Khi quan sát được lúc nào bé thường thấy đói, bạn hãy cho bé ăn vào những giờ phụ hợp, tạo cho trẻ lớp sống điều độ. - Hãy giảm số bữa ăn. Một đứa trẻ 3 tuổi thực sự không cần đến 5 bữa ăn mỗi ngày. Giữa bữa ăn sáng và bữa ăn trưa, thay vì cho bé ăn cháo hay một lưng cơm , bạn hãy cho bé ăn một quả chuối hay miếng đu đủ, có thể sau đó bé sẽ ăn trưa một cách ngon lành. - Hãy quan tâm đến tính đa dạng của các món ăn. Nếu ngày nào bạn cũng dọn cho bé món trứng đúc thịt, thì chẳng có gì ngạc nhiên khi nó không muốn ăn. Nếu bữa sau, bạn cho bé một khúc cá rán hay một bát súp sườn hầm khoai tay, củ cải bạn sẽ thấy là ít ra là bé sẽ thử. - Bạn hãy cố gắng sắp xếp bàn ăn, món ăn đẹp và "ngon mắt". Bên cạnh những búp súp lơ trắng là những cánh hoa cà rốt màu cam, bên cạnh những khúc đậu đũa xanh có cà chua đỏ. Một sáng kiến rất hay là món sa lát thập cẩm: cà rốt, ớt ngọt, giá đỗ, khoai tây, dưa chuột,… - Hãy chấp nhận một số ý thích trái khoáy của bé. Nếu bé nhất định đòi làm điều bực mình, hãy làm cho bé ăn. Đấy chẳng qua là khẩu vị . Nếu bé chỉ thích ăn bánh mỳ kẹp hình tam giác hay uống sữa bằng ống hút, bạn cứ chiều theo ý thích của bé, chắc chắn rồi đến lúc bé sẽ chán. - Đừng ép bé ăn cái gì mà nó không thích. Thay vì thịt, bạn có thể cho bé ăn trứng, cá hoặc giò, xúc xích. Nếu bé sợ rau, thì thay vì bực bội, bạn hay cho bé ăn thêm trái cây. - Bạn đừng cố giấu những thứ bé không thích ăn vào các món ăn. Vì chắc chắn bé sẽ phát hiện và sẽ không chịu ăn nữa. Và nguy nhất là bạn đã làm nó ghét cái món ăn mà đến nay nó vẫn thích. - Bạn có thể dùng chiến thuật " bình rượu mới cũ". Thay vì cho bé ăn thịt với cơm, bạn kẹp thịt vào bánh mỳ. Bạn có thể cho canh vào cốc như một thứ đồ uống thay vì để bát như thường lệ. 12
  14. - Bạn thử xay trái cây cho vào ngăn đá cho đông sệt lại, có thể bé sẽ thích hơn. - Chỉ cho bé uống sau bữa ăn, chứ không vừa ăn vừa uống, đặc biệt là trước bữa ăn. Nếu trước bữa ăn, dạ dày bé tẹo của bé đã được làm đầy bằng nước ngọt thì đương nhiên là suất ăn trưa không còn quyền cư trú trong đó nữa. - Cứ để cho bé ăn lâu như bé thích. Việc bé nhẩn nha cả buổi trưa không có nghĩa là bé biếng ăn. Có thể việc tự ăn vẫn là quá khó đối với bé. Thậm chí cả khi bạn thấy bữa ăn dường như không bao giờ kết thúc, thì đừng tỏ ra sốt ruột. Bé chỉ cần biết là bạn muốn kết thúc bữa ăn, nó sẽ ẩn bát cơm ra xa ngay. Vì điều đó dễ hơn so với việc xúc cơm vào miệng, rồi phải ngậm, nhai, nuốt! - Các ban hãy cùng ngồi ăn bên bàn ăn gia đình. Ngồi ăn một mình thật buồn chán. Người bố kể chuyện một con chim đến làm tổ trong vuờn nhà như thế nào, mẹ thì kể một câu chuyện vui khi đi chợ,… Thế là bé vừa ăn vừa giỏng tai nghe, quên khuấy cái bát cơm đáng ghét. - Bạn hãy để cho trẻ tự ăn. Phần lớn trẻ 2,3 tuổi sẽ ăn nhiều hơn nếu mẹ để chúng tự ăn. Nếu mẹ cứ bón mãi, dần dần bé nhận thấy rằng đúng là một việc khó chịu, chẳng khác gội đầu hay uống thuốc, cũng là mẹ làm cho bé. Hãy làm sao để bé thấy rằng được ăn là niềm vui giống như một trò chơi vậy. - Không nên ép bé ăn thêm thìa cơm cuối cùng. Nếu bé nói rằng nó đã no, hãy để bé đặt bát xuống, còn bạn không bình luận gì về chuyện đó. - Hãy để bé cùng tham gia nấu nướng. Bé sẽ thấy rau muống mà bé tự tay nhặt, hay món thịt bé tự tay trộn gia vị sẽ ngon hơn rất nhiều. - Bạn hãy quan tâm đến không khí bữa ăn . Sự vội vã, lộn xộn , những xung khắc hàng ngày giữa bố và mẹ sẽ làm bé ăn mất ngon. - Bé không nhất thiết phải ăn hầu hết khẩu phần ngay một lúc. Bạn hãy thử chia nhỏ khẩu phần ăn của bé, ví dụ bé có thể ăn giữa bữa giữa buổi sau lúc đi dạo, hoặc một bát cháo nhỏ trước lúc bé ra sân chơi với bạn 13
  15. bè. Có thể không khí trong lành sẽ khiến món thịt bò xào mà bé rất ghét trở lên ngon hơn. Bài 3: Giáo dục tự lập cho trẻ Sai lầm mà hầu hết các bậc cha mẹ đều mắc phải nhất là thường chăm chút cho con mình quá mức. Sau đây là một vài lời khuyên giúp tránh điều này. + Hãy cho bé một số quyền tự lập nào đó: tự mặc quần áo, tự mang giầy, tự ăn và ngủ. Đây là những bước đầu tiên để tập cho bé có được tính tự lập. + Hãy cho bé có cơ hội được lựa chọn. Điều này sẽ giúp bé phát triển tư duy. Khi bé bắt đầu biết đi, hãy để cho bé tự chọn quần áo để mặc. Nhờ vậy, bé quen với việc lựa chọn tranh phục riêng cho mình. Khi lớn lên, bé sẽ không bắt chước một cách mù quáng những điều mà người khác làm. + Hãy để cho bé có một trách nhiệm nhỏ nào đó. Chẳng hạn như yêu cầu bé chăm sóc một cây trồng. Điều này tập cho bé có tinh thần trách nhiệm. Đừng la rầy bé nếu không làm tốt nhiệm vụ này. Bé cần được dạy dỗ nhiều hơn. Nếu có thể, hãy để cho bé tự biết một vài hậu quả từ công việc của mình làm. Bài 4: Dùng cam như thế nào để có lợi cho sức khỏe? Cam là một trong những loại quả có giá trị bổ dưỡng cao nên rất được ưa chuộng trong đời sống hàng ngày. Trước đây do còn khan hiếm và giá đắt nên chỉ những người bệnh thuộc hàng trung lưu trở nên mới thường được dùng cam để bồi bổ và khôi phục sức khoẻ. Nhưng ngày nay cam đã không còn là một loại quả "quý tộc" nữa. Cam đang là một loại trái cây có mặt khá thường xuyên trên bàn ăn của gia đình. Tuy nhiên, cách dùng cam như thế nào cho thật đúng, cho thật khoa học để tận dụng hết tác dụng bổ dưỡng của trái cây quý giá này đồng thời hạn chế được những mặt trái khi dùng không đúng cách thì không phải ai cũng biết. Nhiều người, nhất là những người có khả năng kinh tế, đã dùng cam hơi thái quá, không những 14
  16. không phát huy được những mặt tốt của cam mà còn xảy ra những "tác dụng phụ", những tác dụng không mong muốn như có cảm giác khó tiêu hay nóng rát ở vùng dạ dày hoặc ít ra là hạn chế lợi ích vốn có của trái cam. Vì thế việc dùng cam cần tuân thủ một số nguyên tắc, hay nói cách khác, là một nghệ thuật dùng cam. Múi cam cà dịch cam có giá trị bổ dưỡng đối với sức khoẻ con người. Nhiều nhà khoa học trên thế giới đã dành công sức để chứng minh và phát hiện ra những giá trị mới của trái cây này trong việc phòng và chống lại nhiều bệnh tật. Cam là một loại quả có múi và chứa chất dịch có màu vàng da cam, có vị hơi chua và ngọt dịu kết hợp với mùi thơm đặc trưng, dịch cam có độ PH hơi axít nên nếu những người bị viêm hay loét dạ dày nếu dùng cam vào lúc đói sẽ làm tăng thêm cảm giác cồn cào và nóng rát. Cùi cam chứa nhiều chất xenlulô hay còn gọi là chất xơ rất có giá trị trong việc nhuận tràng, kích thích sự co bóp của ruột nên có tác dụng chống táo bón. Chất xơ trong cam có tác dụng hấp thụ lượng chất cholesterol hay chất béo có hại trong ruột và đóng vai trò như một chiếc chổi quét chất độc hại theo phân thải ra khỏi cơ thể. Một thông tin gần đây nhất cho biết, chỉ cần một vài trái cam trong một ngày [dùng theo cách gọt vỏ và ăn cả cùi] là đã có khả năng phòng chống được bệnh ung thu ruột già và các bệnh tim mạch. Nếu có khoái khẩu thì chỉ nên dùng 2,3 quả cam trong một ngày và theo cách gọt vỏ ăn cả cùi. Nếu dùng nhiều hơn thì nên vắt lấy dịch kết hợp với ăn cùi, vì nếu dùng quá nhiều chất xơ có thể có tai biến gây tắc ruột. Những người đang bị các chứng bệnh như viêm loét dạ dày, tá tràng, viêm ruột không nên dùng cam vào lúc đói và dùng dịch cam quá nhiều trong ngày. Tốt nhất là nên dùng cam sau bữa ăn theo kiểu ăn tráng miệng. Nếu dùng Tetracyclin thì không nên dùng nhiều cam vì dịch cam sẽ làm giảm bớt thậm chí cam sẽ làm mất tác dụng trị bệnh của thuốc. Bài 5: Lời khuyên về vấn đề ăn uống của trẻ em 15
  17. Để làm cho trẻ ăn được ngon miệng, ăn được nhiều thức ăn dễ hấp thụ hơn, điều trước tiên khi đi mua bạn phải chọn thực phẩm tươi mới, còn nhiều sinh tố và muối khoáng. Các thực phẩm mua về ăn liền như bánh mì, các loại bánh ngọt phải đựng trong bao sạch tránh bụi bậm, ruồi nhặng. Rau củ mang về, bạn bỏ hết phần không dùng được, rửa sạch rồi mới đem thái nhỏ [tuyệt đối không nên thái nhỏ trước khi rửa] Khi nấu bạn nên xào thịt, rau củ trước khi cho vào nấu. Phi hành mỡ cho thơm trước khi xào thịt, rau củ sẽ làm cho các sinh tố tan trong mỡ được hấp thụ hết và kích thích trẻ ăn ngon miệng. Màu sắc của thức ăn cũng hấp dẫn trẻ, bạn nên sắp xếp để sao cho bát cơm của trẻ có màu sắc. Màu như: màu vàng của trứng, màu xanh của rau lá, màu đỏ của cà rốt, màu nâu của thịt cá. Khi nấu, bạn đậy vung kín [không nên quấy, đảo nhiều] thức ăn sẽ mau chín và giữ được sinh tố. Thức ăn của trẻ phải nấu chín, không cho trẻ ăn thức ăn tái hoặc sống dễ gây tiêu chảy, nhiễm trùng, giun sán. Thức ăn chín nên cho trẻ ăn trong ngày, đến chiều trước khi cho trẻ ăn cũng phải hâm lại. Không được để thức ăn quá lâu ngày và hâm đi hâm lại, thức ăn sẽ mất dinh dưỡng và đặc biệt là nhiễm độc thức ăn gây nguy hiểm cho trẻ. Không nên cho trẻ ăn các loại rau, quả còn sống, chua các loại gia vị như: ớt, tiêu, tỏi, các loại nước uống kích thích như cà phê, bia, rượu,.. Thức ăn của trẻ phải mềm, khi trẻ có đủ răng bạn có thể cho trẻ ăn thức ăn cứng hơn. Không nên cho trẻ ăn quá nhiều trong một bữa, trẻ sẽ chán ăn mất ngon, hôm khác gặp thức ăn ấy trẻ sẽ sợ, chưa kể đến trẻ bị đầy bụng, khó tiêu. Nếu trẻ bồi dưỡng nhiều, bạn nên cho trẻ ăn thành nhiều bữa trong ngày, trẻ sẽ hấp thụ hết. 16
  18. Tập cho trẻ ăn đủ loại thức ăn mà ở lứa tuồi trẻ có thể ăn được, không nên để trẻ quen ăn đơn điệu với một loại thức ăn. Nếu bạn chỉ tập cho trẻ ăn cơm với thịt hoặc trứng không thì lớn lên trẻ sẽ rất ghét và không thích, không biết ăn cá, tôm, cua,…. Bạn cũng không nên cho trẻ ăn đồ ngọt vào trước bữa ăn chính gây chán ăn. Không nên cho trẻ ăn quá no trước khi đi ngủ, nhất là ban đêm vì gây tiết dịch tiêu hoá, làm tăng hưng phấn thần kinh, khiến trẻ khó ngủ. Buổi tối chỉ nên cho trẻ ăn nhẹ các loại trái cây, bánh ngọt, uống sữa trước khi đi ngủ. Khi trẻ ăn, bạn nên tập cho trẻ ăn đúng giờ, ngồi vào bàn ghế vừa tầm, tập cho trẻ tự xúc, nhắc trẻ ăn chậm nhai kỹ. Tuyệt đối không nên dỗ trẻ ăn bằng cách bế trẻ đi rong ngoài đường vì sẽ hình thành một tính xấu, rất khó sửa cho trẻ. Khi sốt cao, trẻ rất khát nước vì đổ mồ hôi, thở nhanh cho nên trẻ uống nhiều nước dưới các hình thức:nước chín, trà pha loãng, nước chanh sữa,… Cho trẻ ăn thức ăn lỏng, dễ tiêu cung cấp đủ chất dinh dưỡng: chất đạm, béo, bột, đường, rau, củ,…dưới dạng cháo lỏng, cháo thịt băm, cơm canh hoặc súp. * Vận động phụ huynh sưu tầm các bài viết có liên quan đến việc chăm sóc và nuôi dạy trẻ theo khoa học để đóng góp thêm tài liệu vào góc tuyên truyền của lớp Sau đây là một số bài có chất lượng mà phụ huynh đã sưu tầm được phổ biến ở góc tuyên truyền của lớp. Bài 1: Những việc cần làm đối với trẻ khó tập trung chú ý Chú ý của trẻ mẫu giáo là phản ứng thích thú của trẻ đối với những đối tượng xung quanh và những hành động của trẻ đối với những đối tượng đó. Trẻ tập trung chú ý vào một đối tượng nào đó khi trẻ đang thích thú nó, 17
  19. nhưng khi xuất hiện một đối tượng mới lập tức sự chú ý của trẻ được chuyển sang đối tượng mới. Khả năng chú ý được tính bằng chiều dài thời gian thực hiện một hành động từ đầu cho đến cuối. Đối với những trẻ có khả năng chú ý ngắn thì mỗi việc trẻ tập trung được một lúc, sau đó lại chuyển sang việc khác và như vậy là trẻ không hoàn thành được việc nào và rất dễ bị phân tán tư tưởng. 1. Nguyên nhân - Những hoạt động mang tính chất đơn điệu và không hấp dẫn trẻ. - Những trẻ có tính cách dễ dao động, không kiên nhẫn, bền bỉ và thiếu tự tin vào bản thân mình - Do sự chậm hoàn thiện chức năng não bộ - Đứa trẻ lười biếng, kết hợp với khả năng tiếp thu chậm, sự chậm chễ hay lo lắng. 2. Làm thế nào để ngăn chặn: - Tạo cơ hội giúp trẻ đạt được sự thành công trong hoạt động chú ý bằng cách cho trẻ tự lựa chọn những việc mà trẻ thích. Khuyến khích và khen thưởng cho bất kỳ sự cố gắng nào của trẻ trong việc thực hiện nhiệm vụ. - Dạy và rèn luyện cho trẻ khả năng tập trung vào công việc 3. Những việc cần làm - Tổ chức các hoạt động có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển chú ý có chủ định như cho trẻ quan sát các sự vật xung quanh, khuyến khích trẻ tham gia tích cực vào các trò chơi, khuyến khích trẻ hoạt động tạo hình, hát múa,.. - Giao cho trẻ những công việc thích hợp và đặt trẻ những công việc cụ thể, nghĩa là tạo điều kiện va chạm thường xuyên hơn với những tình huống buộc trẻ phải chú ý thì mới hoàn thành được nhiệm vụ [ví dụ trẻ phải chú ý quan sát kỹ mới tìm đủ lượng số con vật trong một bức tranh phong 18
  20. cảnh, hay phát hiện những chi tiết thừa [thiếu] khi nghe một câu chuyện quen thuộc,…] - Khi giao nhiệm vụ cho trẻ cần phải cụ thể, chi tiết, lời nói rõ ràng, ngắn gọn, sau đó cho trẻ nhắc lại nhiệm vụ được giao. Bài 2: Ăn nhai sẽ giúp trẻ ngon miệng Bắt đầu ăn dặm, phải cho trẻ ăn lỏng, ăn mềm, vì lúc này đường tiêu hoá của trẻ còn non yếu. Nhưng khi trẻ đã mọc răng thì cần tập dần để trẻ ăn nhai. Một số bà mẹ cứ cho thức ăn vào cối xay sinh tố để nghiền nhỏ thành một hỗn hợp bột mịn cho con ăn ngay cả khi con mình đã có đẩy đủ răng. Điều này không tốt, không tạo cho trẻ cảm giác ngon miệng và ảnh hưởng tới quá trình tiêu hoá và hấp thu. Nhai rất quan trọng đối với sự tiêu hoá của mọi loại thức ăn. Khi nhai sẽ kích thích sự bài biết các men tiêu hóa. Tại miệng kích thích sự bài tiết nước bọt, trong nước bọt có men ptyalin có tác dụng phân giải tinh bột chín thành đường maltose. Tại dạ dày kích thích bài tiết dịch vị, trong đó có men pepsin và men lipase. Men pepsin có tác dụng tiêu hoá chất đạm, men lipase có tác dụng tiêu hoá mỡ yếu. Ngoài các men tiêu hoá, dịch vị còn có một thành phần rất quan trọng là axit clohydric. Axit này có vai trò quan trọng tạo môi trường axit thuận lợi cho men pepsin hoạt động, có tác dụng sát khuẩn. Tại ruột kích thích các men tiêu hoá của dịch tuỵ, dịch ruột. Men tiêu hoá của dịch tuỵ, dịch ruột kết hợp với muối mật, có tác dụng giúp tiêu hoá các thành phần của thức ăn đến giai đoạn cuối cùng. Nhờ các men tiêu hoá của dịch vị, dịch tuỵ dịch ruột và muối mật, các thức ăn là chất đạm, chất béo, chất bột được tiêu hoá thành các axit amin, axit béo, đường đơn để cơ thể hấp thu. Như vậy, khi trẻ có răng, cần chế biến các thức ăn thích hợp để giúp trẻ tập ăn nhai. Nếu mọi thứ đều cho vào cối xay nhuyễ, tạo thành một hỗn hợp mềm, mịn, trẻ không cần nhai chỉ nuốt. Các cơ nhai và hàm răng không được tập luyện sẽ yếu và quá 19

Video liên quan

Chủ Đề