Quy trình tìm kiếm và phát triển thuốc mới

Để đưa ra thị trường một loại thuốc mới phải bỏ ra rất nhiều thời gian và chi phí, trong đó thành công không ít và thất bại cũng không đếm xuể.

Mỗi năm thế giới xuất hiện liên tục các loại bệnh mới, virus lạ trong khi những bệnh cũ còn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Hoặc đã có thuốc điều trị rồi nhưng hiệu quả chưa cao, còn nhiều tác dụng phụ nên các tập đoàn dược phẩm hàng đầu thế giới luôn luôn nghiên cứu, tìm tòi làm sao để phát minh ra được thuốc mới.

Theo một chuyên gia dược phẩm có thâm niên đang công tác tại một doanh nghiệp dược phẩm đa quốc gia thì nghiên cứu thuốc là nghiên cứu đắt đỏ nhất trong các loại nghiên cứu. Tính trung bình, mỗi một thuốc mới khi hoàn tất nghiên cứu đưa ra thị trường có thể tốn kém hàng trăm triệu USD.

Và tùy từng công ty, nhưng chi phí cho R&D của họ vào khoảng từ 17-25% doanh số mỗi năm, đó là những con số cực lớn. Chính vì thế khi một thuốc mới được phát minh ra họ được cấp sáng chế độc quyền [patent] và được bảo hộ trong vòng 10-15 năm bán độc quyền nhằm thu lại những chi phí họ bỏ ra nghiên cứu và tái đầu tư nghiên cứu thuốc mới.

Những thuốc này gọi là thuốc Brand Name. Sau khi hết thời gian bảo hộ, vì sức khoẻ của nhân loại, những hãng thuốc Brand name bắt buộc phải công bố cách thức sản xuất hoạt chất này cho thế giới, và các hãng thuốc nhỏ hơn bắt tay vào sản xuất thuốc này với giá thành rẻ hơn nhằm tiếp cận với tất cả mọi người. Thuốc này được gọi là thuốc Generic.

Cá biệt, cũng có những trường hợp thuốc vừa nghiên cứu xong, nhưng đứng trước đại dịch toàn cầu, hãng thuốc Brand name không kịp sản xuất và họ công bố luôn cách thức điều chế hoạt chất đó, như vụ hãng dược phẩm Hoffmann - La Roche với thuốc Tamiflu trong đại dịch SARS.

Chính vì lợi nhuận khổng lồ trong việc sản xuất thuốc nên nhằm tránh việc những hãng thuốc lợi dụng, đưa những thuốc không đủ an toàn, thiếu hiệu quả hay thậm chí vi phạm những chuẩn mực đạo đức nên tất cả các nghiên cứu khi bắt đầu tiến hành phải nộp đơn xin nghiên cứu lên FDA [ Food and Drug Administration] và FDA sẽ thành lập một Hội đồng đạo đức IRB [Institutional Review Boards] và IEC [Independent Ethical Committee] nhằm bảo vệ quyền lợi và sức khoẻ của những người tham gia nghiên cứu. Hội đồng này độc lập với tất cả các cơ quan, không chịu sự chi phối từ bất cứ đâu.

Và tất cả các nghiên cứu liên quan đến con người đều phải được IRB xem xét. Và trong suốt quá trình thử nghiệm, các công ty tài trợ cho nghiên cứu phải gửi toàn bộ các báo cáo thường xuyên lên IRB xem xét.

Và chỉ cần nghiên cứu này rơi vào tình trạng nguy hiểm cho bệnh nhân mà không rõ nguyên nhân, IRB hoàn toàn có thể bắt buộc dừng nghiên cứu.

Thế nên, có thể trong cả nghìn loại hoạt chất nghiên cứu, chỉ có 1 loại hoạt chất thành công. Điều này nó cũng làm chi phí nghiên cứu bị đội lên cao ngất ngưởng, nhưng bù lại nó đem lại sự an toàn cho người sử dụng.

Để nghiên cứu thuốc, đầu tiên phải hiểu cơ chế của bệnh mà định đúng thuốc điều trị.

Phải nghiên cứu cơ chế này ở mức độ phân tử. Từ đó sáng tỏ về nguyên nhân của bệnh, xác định dùng thuốc can thiệp vào quá trình nào trong cơ chế bệnh sinh, từ đó mới xác định mục tiêu [target] và chọn một phân tử làm đích tác dụng của thuốc.

Sau khi xác định được mục tiêu, phải đánh giá và chứng minh được rằng mục tiêu định can thiệp có liên quan đến cơ chế sinh bệnh hay phát triển của bệnh và dùng cái gì để có thể tác động lên trên mục tiêu, trên chuỗi quá trình đó.

Tiếp theo là giai đoạn tìm kiếm thuốc tác động lên mục tiêu đó. Lúc này, có hàng ngàn hoạt chất được gọi là ứng viên thuốc [Drug candidates], qua quá trình chỉnh sửa, loại bớt để hình thành các cấu trúc thuốc, bắt đầu cho thử nghiệm tiền lâm sàng [Preclinical]

Thử nghiệm tiền lâm sàng

Thử nghiệm tiền lâm sàng là thử nghiệm trong phòng thí nghiệm, trên cơ thể động vật trước khi được thử nghiệm trên người.

FDA quy định tất cả các thuốc trước khi thử nghiệm trên người đều phải qua bước này.

Ở đây có 2 loại thử nghiệm là invitro và invivo.

Invitro là thử nghiệm trong ống nghiệm, Invivo là thử nghiệm trên động vật [chuột, thỏ…]

Trong giai đoạn này, các nhà nghiên cứu sẽ tìm hiểu cơ chế hoạt động của thuốc như thế nào, có tác động theo đúng ý muốn hay không, độ an toàn trên động vật ra sao.

Sau khi vượt qua được yêu cầu của FDA, nhà sản xuất mới tiến tới bước nghiên cứu trên người và nghiên cứu này gọi là nghiên cứu lâm sàng [Clinical trials]

Nghiên cứu lâm sàng

Giai đoạn này rất quan trọng và để thành công một thuốc mới cũng khá lâu, thường mất từ 5-7 năm.

Việc đầu tiên, các hãng dược phải nộp đơn xin nghiên cứu thuốc mới cho FDA và FDA sẽ thành lập IRB và IEC như đã nói ở trên.

Quá trình nghiên cứu này có 4 phase và 3 phase đầu quan trọng nhất

* Phase I: Thử nghiệm đầu tiên trên người với 1 nhóm nhỏ người tình nguyện khỏe mạnh

Nghiên cứu này thường được tiến hành với 20 - 100 người tình nguyện khỏe mạnh.

Mục đích chính của nghiên cứu thử nghiệm phase I là kiểm tra về tính an toàn trên người của thuốc.

Các nhà nghiên cứu sẽ tiến hành thu thập các thông số dược động học của thuốc: Hấp thụ ra sao, chuyển hóa và thải trừ như thế nào trong cơ thể.

Đồng thời họ cũng có thể nghiên cứu về dược lý học của thuốc: Chúng có gây ra tác dụng phụ không, có gây được tác dụng như mong muốn không.

Những thử nghiệm này được thiết kế ra nhằm giúp cho các nhà nghiên cứu xác định được khoảng liều an toàn và quyết định liệu nó có nên được tiếp tục phát triển nữa không.

* Phase II: Thử nghiệm trên một nhóm nhỏ bệnh nhân

Ở phase II, các nhà nghiên cứu sẽ đánh giá tác dụng của ứng viên thuốc trên khoảng 100 - 500 bệnh nhân và kiểm tra các tác dụng phụ ngắn hạn có thể xảy ra [hiện tượng bất lợi] và các rủi ro do thuốc gây ra. Họ cũng phải trả lời các câu hỏi sau: thuốc có hoạt động theo cơ chế mong muốn không, có thể cải thiện được tình hình bệnh không.

Các nhà nghiên cứu cũng phải phân tích được mức liều tối ưu và lịch trình liều dùng của thuốc. Nếu thuốc vẫn đưa ra được các kết quả tốt, có nhiều hi vọng thì họ sẽ chuẩn bị tiếp tục tiến hành thử nghiệm lớn hơn - thử nghiệm phase III

* Phase III: Thử nghiệm trên một nhóm lớn bệnh nhân để chứng minh về tác dụng và độ an toàn.

Thử nghiệm phase III được thực hiện trên một số lượng lớn người bệnh khoảng vài ngàn người, cá biệt có nghiên cứu tới vài chục ngàn người để đưa ra được các dữ liệu thống kê có ý nghĩa về độ an toàn, tác dụng và mối quan hệ giữa lợi ích - nguy cơ của thuốc.

Đây là phase quyết định xem thuốc có tác dụng và hiệu quả hay là không. Nó cũng cung cấp các cơ sở cho việc ghi nhãn hướng dẫn sử dụng [ví dụ thông tin về các tương tác khi sử dụng cùng thuốc khác].

Thử nghiệm phase III là thử nghiệm dài nhất và tốn kém nhất. Để có được một nhóm bệnh nhân đủ lớn và đa dạng, người ta đã phải tiến hành thử nghiệm tại hàng trăm nơi khắp các vùng khác nhau trên thế giới.

Phase III cũng là phase các hoạt chất trong nghiên cứu thất bại nhiều nhất, các tập đoàn dược phẩm khổng lồ như Pfizer, Roche, Novatis…. cũng ngậm ngùi tiêu tốn cả vài trăm triệu cho đến cả tỷ USD khi không giải trình được nguyên nhân thuyết phục với IRB.

Thế nên vượt qua được nghiên cứu này là coi như đã thành công. Sau khi nghiên cứu phase III thực hiện xong, các tập đoàn dược phẩm nộp hồ sơ lên FDA để được chấp thuận phê chuẩn thuốc mới.

FDA sẽ xem xét vô cùng nghiêm ngặt về mặt chuyên môn và cân nhắc giữa những lợi ích mà thuốc đem lại. Xem xét hiệu quả của thuốc rồi trả lời chấp thuận hay không.

* Phase IV: Sau khi thuốc tung ra thị trường

Sau khi sản xuất hàng loạt và tung ra thị trường điều trị trên số lượng lớn bệnh nhân, FDA tiếp tục yêu cầu các hãng dược phải theo dõi, gửi báo cáo định kỳ và cảnh giác dược. Nếu xảy ra các trường hợp phản ứng phụ nghiêm trọng, thuốc đó hoàn toàn có thể bị rút giấy phép bất kỳ lúc nào. Thuốc Vaiox của Pfizer bị rút giấy phép khi đã đưa ra lưu hành rộng rãi là một ví dụ.

Quy trình nghiên cứu thuốc điều trị cho con người là quy trình hết sức nghiêm ngặt và hầu như không được phép có lỗ hổng. Bất cứ loại thuốc nào muốn bán trên thế giới đều phải qua quy trình nghiên cứu này.

D.Ngân
baodautu.vn

Phát minh và sản xuất ra thuốc mới là quá trình tìm và khám phá ra thuốc có tiềm năng chữa bệnh cho con người. Quá trình phát hiện và sản xuất một loại thuốc mới về căn bản sẽ phải trải qua 7 giai đoạn.

Để có thể tạo ra một loại thuốc mới, các nhà nghiên cứu cần trải qua một quá trình xuyên suốt và chặt chẽ. Một loại thuốc để đến được tay người bệnh cần trải qua lần lượt 7 giai đoạn như sau:

Giai đoạn 1: Nghiên cứu- tìm ra cách tiếp cận mới để điều trị bệnh lý hoặc các vấn đề về sức khỏe

Ở giai đoạn đầu tiên này, các nhà nghiên cứu sẽ căn cứ vào sự hiểu biết về sinh học để nhận biết và xách định được thuốc mới. Cốt lõi quan trọng của công việc này là phải xác định chính xác loại thuốc mới đó. Nó là vô cùng quan trọng bởi nó có ảnh hưởng đến quá trình sinh bệnh theo cách mà ngành khoa học gợi ý.

Khi đã xác định được loại thuốc mới, các nhà nghiên cứu cần tìm ra các hợp chất hóa học hoặc tự nhiên có thể ức chế hoặc tăng hoạt động thuốc mới đó. Các kỹ thuật khoa học hiện đại và phát triển như ngày nay cho phép các nhà nghiên cứu sàng lọc ra được hàng trăm hợp chất cho hoạt động này rất nhanh. Các nhà nghiên cứu sẽ chọn ra các hợp chất mà cho ra kết quả như mong đợi và tạm đặt cho cái tên là HIT. HIT là các phân tử nhỏ được phát hiện ở giai đoạn sớm nhất khi sàng lọc.

Giai đoạn 2: Khám phá- phát triển và nghiên cứu các hợp chất có thể thay đổi quá trình bệnh lý

Sau khi các nhà nghiên cứu xác định được các HIT, họ sẽ tiến hành thu hẹp các hợp chất có khả năng bằng các thử nghiệm sâu hơn để nhằm tìm ra được các hợp chất dẫn.  Các hợp chất dẫn đạt tiêu chuẩn của các nhà nghiên cứu khi đạt được những yếu tố sau:

Hợp chất dẫn đạt được mục tiêu tác động trên quá trình bệnh lý một cách chọn lọc.

Hợp chất dẫn an toàn khi cho vào cơ thể.

Hợp chất dẫn tiếp cận được nơi thích hợp trong cơ thể để trị bệnh.

Hợp chất dẫn tồn tại được đủ lâu trong cơ thể để đạt được hiệu quả như mong muốn.

Hợp chất dẫn có thể sản xuất được để tạo ra một nguồn nguyên liệu ổn định, phục vụ nhu cầu sử dụng của con người.

Hợp chất dẫn ít có tác dụng phụ.

Giai đoạn 3: Thử nghiệm tiền lâm sàng- Hiểu được hợp chất hoạt động trong cơ thể như thế nào và tác dụng của nó.

Ở giai đoạn này, các nhà nghiên cứu sẽ tiến hành nghiên cứu chi tiết hơn về các hợp chất dẫn. Thử nghiệm tiền lâm sàng bằng cách thử trên các tế bào sống, vi khuẩn hoặc mô cấy trong phòng thí nghiệm, hoặc trên động vật để các nhà khoa học có thể hiểu được về cách phản ứng của hợp chất.

Giai đoạn này thành công thì các nhà nghiên cứu mới cân nhắc thử nghiệm trên người.

Giai đoạn 4: Thử nghiệm lâm sàng- tiến thử nghiệm trên người

Trước khi tiến hành thử nghiệm trên người, Hội đồng kiểm tra Y đức sẽ lên kế hoạch xây dựng và xác định xem những thí nghiệm nào sẽ được tiến hành. Hội đồng Y đức có quyền bác bỏ hoặc dừng thí nghiệm bất cứ khi nào.

Trước khi đưa vào sử dụng, các loại thuốc mới sẽ cần qua 3 giai đoạn thử nghiệm trên người trước. Khi thử nghiệm lâm sàng trên cơ thể người, sự an toàn của những người tham gia thử nghiệm là vô cùng quan trọng. Tất cả thử nghiệm lâm sàng sẽ đều tuân thủ theo hướng dẫn của Hội nghị quốc tế về hài hòa sử dụng dược phẩm trên người [ICH] và Tuyên ngôn Helsinki của Hiệp hội Y học Thế giới về các nguyên tắc đạo đức cho các nghiên cứu Y học liên quan đến người [2008].

Giai đoạn 5: Cấp phép theo quy định- Thuốc mới được các cơ quan chức năng cấp phép

Thuốc mới sau khi qua thử nghiệm thành công sẽ được nộp cho các cơ quan chức năng có liên quan để xin cấp phép. Dựa vào nghiên cứu cụ thể mà các nhà nghiên cứu sẽ đề nghị với cơ quan quản lý về đối tượng nào sử dụng thuốc mới để đạt hiệu quả để cơ quan quản lý quyết định. Theo đó, các cơ quan quản lý sẽ yêu cầu cung cấp các giới hạn và cảnh báo khi sử dụng các loại thuốc mới.

Sau khi cơ quan quản lý cấp phép, thuốc mới sẽ được đưa vào đơn thuốc mà bác sĩ kê cho bệnh nhân.

Giai đoạn 6: Cung cấp- sản xuất và vận chuyển thuốc đã được cấp phép để các bác sĩ kê đơn

Thuốc mới đã được cơ quan quản lý cấp phép sẽ được đưa vào sản xuất và phân phối. Các bác sĩ sẽ được cung cấp thông tin về thuốc để kê đơn cho bệnh nhân.

Giai đoạn 7: Giám sát- tiếp tục tìm hiểu thêm từ việc sử dụng thuốc mới

Thuốc mới được đưa vào sử dụng, các nhà nghiên cứu sẽ hiểu biết được sâu hơn về tác dụng của chúng. Công việc này có ý nghĩa đánh giá về một loại thuốc thay đổi theo thời gian.

Mọi chi tiết liên hệ:

Văn phòng khoa Y-Dược

: – –

ĐT: 0972.938.849 || 0904.620.983

Email:

Video liên quan

Chủ Đề