Quản lý đô thị là gì

Ngành Quản lý đô thị và công trình là gì? Ngành Quản lý đô thị và công trình học gì? Học phí bao nhiêu?, Zunia sẽ giúp bạn giải đáp tất tần tật những thắc mắc này. Dưới đây là những thông tin về ngành Quản lý đô thị và công trình mà Zunia đã tổng hợp.

1. Ngành Quản lý đô thị và công trình là gì?

- Ngành Quản lý đô thị và công trình là một ngành học thuộc lĩnh vực Kỹ thuật xây dựng, nghiên cứu về cách quản lý và tổ chức các hoạt động liên quan đến quy hoạch, thiết kế, xây dựng, vận hành và bảo trì hạ tầng đô thị và các công trình dân dụng khác. Ngành này liên quan đến việc quản lý đô thị, quản lý dự án xây dựng, quản lý tài nguyên và môi trường, quản lý an toàn và chất lượng công trình. Các chuyên gia trong lĩnh vực này thường có trách nhiệm đảm bảo rằng các công trình xây dựng và cơ sở hạ tầng đô thị được thiết kế và xây dựng đúng quy định, an toàn, hiệu quả và đáp ứng được nhu cầu của cộng đồng.

2. Chương trình đào tạo ngành Quản lý đô thị và công trình

Chương trình đào tạo ngành Quản lý đô thị và công trình là một trong những ngành học được nhiều người quan tâm hiện nay, đặc biệt là trong bối cảnh đô thị hóa đang diễn ra với tốc độ chóng mặt. Nếu bạn đang quan tâm đến ngành học này, hãy cùng Zunia tìm hiểu thêm về chương trình đào tạo của nó để có được cái nhìn tổng quan về những gì bạn sẽ học và trang bị bản thân cho sự nghiệp trong tương lai. Chương trình đào tạo của các trường tuyển sinh ngành Quản lý đô thị và công trình bao gồm một số môn học chính sau đây:

- Khoa học cơ bản về xây dựng: Các môn học này sẽ giúp sinh viên hiểu về cơ sở lý thuyết và thực hành của ngành xây dựng, bao gồm các kỹ thuật thiết kế, kết cấu, vật liệu và các kỹ thuật khác.

- Quản lý dự án: Các môn học này sẽ giúp sinh viên hiểu về các phương pháp quản lý dự án, kế hoạch hóa, phân tích tài chính, quản lý rủi ro, quản lý chất lượng và các kỹ năng liên quan đến việc làm việc trong một môi trường đa ngành.

- Quản lý đô thị: Các môn học này sẽ giúp sinh viên hiểu về các phương pháp quản lý đô thị, bao gồm các quy trình phát triển đô thị, kế hoạch hóa và quản lý các dự án đô thị, và đánh giá tác động môi trường.

- Công nghệ xây dựng: Các môn học này sẽ giúp sinh viên hiểu về các công nghệ mới nhất và quy trình quản lý hiện đại trong việc xây dựng các công trình, bao gồm cả kỹ thuật xây dựng tiên tiến.

- Pháp luật xây dựng: Các môn học này sẽ giúp sinh viên hiểu về các quy định, qui định và pháp luật liên quan đến lĩnh vực xây dựng, bao gồm các vấn đề liên quan đến bảo vệ môi trường và quy định về an toàn lao động.

- Kỹ năng mềm: Sinh viên sẽ được đào tạo các kỹ năng mềm cần thiết để trở thành nhà quản lý chuyên nghiệp, bao gồm các kỹ năng giao tiếp, lãnh đạo, đàm phán, giải quyết xung đột và làm việc nhóm.

Ngoài ra, chương trình đào tạo ngành Quản lý đô thị và công trình còn có những môn học bổ sung khác để giúp sinh viên phát triển các kỹ năng chuyên môn và mềm cần thiết để có thể đáp ứng được các yêu cầu và thách thức trong lĩnh vực Kiến trúc và đô thị. Để tìm hiểu thêm về ngành Quản lý đô thị và công trình, các bạn có thể tham gia các Sự kiện Tư vấn tuyển sinh và hướng nghiệp do các trường đại học tổ chức để giải đáp các thắc mắc liên quan đến ngành học cùng các chuyên gia trong lĩnh vực Kiến trúc và đô thị.

3. Học phí và thời gian đào tạo ngành Quản lý đô thị và công trình

Học phí của ngành Quản lý đô thị và công trình phụ thuộc vào từng Trường và từng cấp độ đào tạo khác nhau. Tại trường Đại học Giao thông Vận tải [Cơ sở Phía Bắc], mức học phí ngành Quản lý đô thị và công trình khoảng 30.000.000 VNĐ/năm. Tuy nhiên, mức học phí này có thể khác nhau tùy vào chất lượng đào tạo, cơ sở vật chất, giảng viên và chương trình đào tạo của trường. Cụ thể, mức học phí này sẽ dao động trong khoảng sau:

3.1. Bậc đại học:

- Chương trình đại trà: Học phí dự kiến từ 30 triệu đồng đến 35 triệu đồng/năm học.

- Chương trình chất lượng cao: Học phí dự kiến từ 40 triệu đồng đến 45 triệu đồng/năm học.

- Thời gian đào tạo: 4 năm.

3.2. Bậc Cao đẳng - Trung cấp:

- Học phí bậc CĐ - TC: Học phí dự kiến từ 22 triệu đồng đến 24 triệu đồng/năm học.

- Thời gian đào tạo: từ 2,5 đến 3 năm.

Cùng điểm qua một số trường đào tạo ngành Quản lý đô thị và công trình chất lượng trên cả nước mà Zunia đã tổng hợp:

Trong quá trình đô thị hoá với tăng trưởng và phát triển, các đô thị thường xuyên đối đầu với nhiều thách thức đáng kể. Đó là: 1] Sự phát triển mất cân đổi, việc phát triển quá tập trung vào các đô thị lớn làm cho sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa đô thị và nông thôn ngày càng cao; 2] Sự phát triển không bền vững, các hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội xuống cấp nhanh chóng, đặc biệt là vấn đề nhà ở và vệ sinh môi trường; 3] Năng lực quản lý hành chính của chính quyền đô thị thường xuyên phải đuổi theo tốc độ phát triển quá nhanh của đô thị; 4] Vấn đề đói nghèo, tội phạm và thất nghiệp thường xảy ra ở các đô thị phát triển nhanh nhưng thiếu cơ sở kinh tế - kỹ thuật vững chắc.

Để có được một đô thị phát triển bền vững có bản sắc, phát triển không thể tách rời khỏi việc giữ gìn tính ổn định mà trong đó công tác quản lý đô thị luôn luôn là một nhiệm vụ hết sức quan trọng.

Bài viết này xem xét một số vấn đề về quản lý đô thị nói chung và vấn đề quản lý đô thị trung tâm chính trị, hành chính quốc gia nói riêng. Từ những khái niệm cơ bản về quản lý đô thị đến các nhiệm vụ, mục tiêu mà quản lý đô thị phải đảm nhận trong công cuộc phát triển đất nước, bài viết nêu lên một vài yếu tố mà công tác quản lý đô thị ở một trung tâm chính trị, hành chính quốc gia cần quan tâm trong thời đại ngày nay, khi cả nước phát triển theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.

Một số vấn đề về quản lý đô thị

Quản lý đô thị là một ngành khoa học tổng hợp, được xây dựng trên cơ sở của nhiều khoa học chuyên ngành, bao gồm hệ thống các chính sách, cơ chế, biện pháp và phương tiện được chính quyền các cấp sử dụng để tạo điều kiện và kiểm soát quá trình tăng trưởng, phát triển đô thị, nhằm thực hiện một cách có hiệu quả các mục tiêu dự kiến.

Quản lý đô thị trước hết là sự thực thi quyền lực công, nhân danh Nhà nước. Vì vậy, quản lý đô thị trước hết là quản lý Nhà nước ở đô thị, quản lý đô thị thể hiện bản chất và vai trò của Nhà nước đối với một khu vực cư trú. Tuy nhiên, quản lý đô thị hiện đại đã có sự tham gia của các tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp, tổ chức phi chính phủ và cộng đồng. Quản lý đô thị nhìn ở góc độ khác còn là sự huy động nguồn nhân lực và tài chính thông qua các tổ chức chính phủ, phi chính phủ và cộng đồng để đạt được các mục tiêu của xã hội trên địa bàn thủ đô.

Quản lý đô thị là một quá trình của sự phát triển, nghiên cứu và đánh giá các chiến lược hợp nhất với sự trợ giúp của các thành phần đô thị liên quan khác, có tính đến những mục đích của khối tư nhân và mối quan tâm của khối công cộng trong khuôn khổ các chính sách của Nhà nước để xác định tạo ra và khai thác những nguồn lực cho việc phát triển kinh tế vững chắc. Vai trò chung của quản lý đô thị là nâng cao vị trí cạnh tranh của một vùng nào đó bằng việc giảm bớt những khoảng cách giữa cung và cầu của các thành phần địa phương tương tự ở vùng này đối với các vùng khác.

Quản lý đô thị đã trở nên một chủ đề rất quan trọng đối với các chính phủ và các tổ chức phát triển quốc tế trên thế giới. Quản lý đã được định nghĩa rộng rãi là làm cho các công việc được hoàn thành thông qua nhân sự. Quản lý liên quan đến việc ra quyết định hoặc lựa chọn cách thức kế hoạch tổ chức, bảo vệ và sử dụng các nguồn lực có được để sản xuất hàng hoá và dịch vụ phục vụ cho việc tiêu thụ, thương mại, hưởng thụ hoặc để xây dựng vốn và tài sản cho phát triển trong tương lai.

Quản lý đô thị hiện nay phát triển rất mạnh trên cơ sở sử dụng các công cụ, phương pháp kỹ thuật hiện đại. Mối quan tâm mới của các nhà quản lý đô thị là việc cung cấp các dịch vụ kỹ thuật hoàn hảo cho cuộc sống thành thị. Do vậy, quản lý đô thị trở nên chuyên môn hoá cao, với việc hình thành các ngành dịch vụ đô thị như điều khiển giao thông, kỹ thuật công trình ngầm, xử lý rác thải, v.v...

Quản lý đô thị khi được chuyên môn hoá sẽ đại diện cho dân cư, bộ máy hành chính và hành pháp. Tổ chức bên trong của bộ máy hành pháp cũng được xây dựng tách biệt với các bộ phận chức năng như áp dụng pháp luật: cấp phép, kiểm soát tuân thủ pháp luật và dịch vụ kỹ thuật như xây dựng, bảo dưỡng hệ thống hạ tầng kỹ thuật và cung cấp dịch vụ tiện nghi đô thị.

Tóm lại, quản lý đô thị liên quan đến khối nhà nước và khối tư nhân làm việc hiệu quả, hợp lý để sử dụng và quản lý các nguồn lực của đô thị [con người, kỹ thuật, vật liệu, thông tin, dịch vụ cơ sở hạ tầng và hệ thống kinh tế của sản xuất] nhằm: 1] Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động một cách tổng thể của môi trường xây dựng đô thị, phục vụ nhu cầu đa dạng của cuộc sống đô thị; 2] đảm bảo sự phát triển bền vững các khu vực đô thị; 3] Cung cấp các dịch vụ đô thị và cơ sở hạ tầng cơ bản để đáp ứng các nhu cầu của cư dân sống và làm việc trong các khu chức năng đô thị; 4] Cải thiện chất lượng sống và sự mạnh khoẻ của cư dân đô thị.

Quản lý đô thị là một quá trình để đi đến mục tiêu, đảm bảo cho đô thị phát triển ổn định, trật tự và bền vững nhằm tạo dựng môi trường sống thuận lợi cho dân cư đô thị, phù hợp với lợi ích quốc gia, cộng đồng dân cư và mỗi cá nhân trên cơ sở kết hợp tổng hoà nhiều yếu tố.

Mục tiêu của quản lý đô thị bao gồm việc phát triển ổn định, trật tự và bền vững; tạo lập môi trường sống thuận lợi; phù hợp với lợi ích quốc gia, cộng đồng và dân cư. Theo Giáo sư Rémy Prudhome, Trường Đại học tổng hợp Paris, việc quản lý đô thị được triển khai dựa trên 8 chữ I [theo tiếng Anh]: 1] Hạ tầng kỹ thuật [Infrastructure]; 2] Khuyến khích [Incentives]; 3] Ngăn cấm [Interdiction]; 4] Thông tin [Information]; 5] Tư nhân hoá quyết định [Individualization of decision]; 6] Tư nhân hoá cung cấp hàng hóa, dịch vụ [Individualization of paying public services] và 8] Tư nhân hoá cấp vốn [Individualization of capital provision].

10 Nội dung và nhiệm vụ của quản lý Nhà nước về đô thị:

1. Xây dựng các chiến lược, chính sách, định hướng, quy hoạch, kế hoạch quản lý và phát triển đô thị;

2. Ban hành các văn bản về quản lý và phát triển đô thị;

3. Chỉ đạo triển khai đầu tư xây dựng và đảm bảo cho thị trường bất động sản hoạt động hữu hiệu;

4. Cung cấp kết cấu hạ tầng công cộng thiết yếu phục vụ nhu cầu tăng trưởng kinh tế, đời sống xã hội và cân bằng sinh thái;

5. Bảo vệ môi trường, an ninh, trật tự xã hội và đô thị;

6. Phát triển văn hóa, kiến trúc kết hợp với bảo vệ di sản văn hóa, lịch sử và cảnh quan đô thị;

7. Kiểm tra, thanh tra, xử lý các vi phạm trật tự đô thị;

8. Giải quyết tranh chấp dân sự, các khiếu tố, khiếu kiện của công dân;

9. Ngăn chặn bóc lột, tệ nạn xã hội và xóa đói giảm nghèo;

10. Tổ chức bộ máy quản lý hành chính đô thị hữu hiệu.

Lý luận về quản lý đô thị hiện đại luôn gắn liền với việc tạo dựng và sử dụng quyền lực của Nhà nước. Trong thế giới đầy sống động và liên tục thay đổi, Nhà nước luôn khẳng định vai trò quyết định đối với mọi vấn đề của xã hội nói chung và xã hội đô thị nói riêng. Mối quan hệ giữa Nhà nước và đô thị cũng được mô tả là một hệ thống có phân công, phân cấp các quyền lực.

Trong nền kinh tế kế hoạch tập trung, Nhà nước có trách nhiệm phát triển và cung cấp các dịch vụ và cơ sở hạ tầng đô thị. Trong nền kinh tế với định hướng thị trường, vai trò của khối tư nhân lớn hơn nhiều trong việc tạo ra và cung cấp các dịch vụ đô thị. Các hướng tiếp cận đối với quản lý đô thị ở các nước đang diễn ra sự chuyển đổi sang nền kinh tế định hướng thị trường đều tập trung vào việc nâng cao hiệu quả của dịch vụ đô thị.

Trong nền kinh tế thị trường, khối tư nhân đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra và cung cấp các dịch vụ đô thị. Nhà nước ngày càng trông chờ khối tư nhân tạo ra và cung cấp một loạt các dịch vụ đô thị một cách độc lập hoặc là đối tác với khối Nhà nước. Xu hướng này trong quản lý đô thị sẽ trở thành xu hướng chính của tương lai. Sự thay đổi trong việc tạo ra và cung cấp các dịch vụ đô thị đòi hỏi một sự quản lý cẩn thận mối quan hệ giữa khối tư nhân và Nhà nước. Vai trò của nhà nước đang thay đổi cùng với đặc tính của Nhà nước.

Nhà nước là Nhà phát triển trong việc cung cấp cơ sở hạ tầng, nhà ở và các dịch vụ đô thị khác trong trường hợp thị trường có sự biến động. Trong nền kinh tế thị trường, thay vì luôn giữ vai trò hàng đầu trong việc phát triển các dịch vụ đô thị như trong nền kinh tế kế hoạch tập trung, vai trò của Nhà nước đã giảm đi rất nhiều, nhường lại cho khối tư nhân xây dựng và trong nhiều trường hợp, quản lý và phát triển cơ sở hạ tầng. Nhà nước, trong một số trường hợp sẽ thoả thuận để làm việc với tư cách là đối tác với khối tư nhân.

Nhà nước là người hỗ trợ, khuyến khích và hỗ trợ khối tư nhân đầu tư và phát triển các dự án thông qua việc cung cấp các tư vấn, lời khuyên và ý kiến chuyên môn khi cần thiết, cung cấp bảo hiểm và kết nối các công ty với nhau để đầu tư vào các dự án vì lợi ích chung và của nền kinh tế.

Nhà nước là Người điều phối, giải quyết các vấn đề phức tạp liên quan đến quản lý dự án khi làm việc với nhiều tổ chức Nhà nước khác nhau, tham khảo ý kiến quần chúng và thoả thuận với chủ sở hữu đất khi bắt buộc trưng dụng đất và nhà.

Nhà nước là Người khuyến khích, trong trường hợp Nhà nước có thể mua cổ phần không có lãi cố định hoặc cung cấp một số khoản trợ cấp và tiền khích lệ để khuyến khích sự phát triển đối với một số loại hình phát triển cụ thể [ví dụ nhà ở mật độ trung bình] mà Nhà nước muốn phát triển ở một địa điểm cụ thể [ví dụ thành phố mới hoặc ngoại ô].

Trong quá trình đô thị hoá, phát triển đô thị và tăng trưởng đô thị đòi hỏi Nhà nước phải khẳng định vai trò và trách nhiệm của mình đối với xã hội trên các lĩnh vực: 1] Xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tạo ra hành lang pháp lý cho các chủ thể hoạt động trên địa bàn đô thị; 2] Đảm bảo việc cung cấp các dịch vụ công, bao gồm xây dựng kết cấu hạ tầng đường sá, cấp thoát nước, cây xanh, thu gom rác thải, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ và giáo dục cơ bản; 3] Kết nối giữa khu vực công và tư trong việc đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển đô thị; 4] Phân phối lại thu nhập, điều hoà lợi ích giữa các nhóm cư dân trong đô thị; 5] Bảo vệ trật tự công cộng và an toàn xã hội.

Hiện nay, ba trong số những điều hạn chế chủ yếu đối với việc cải thiện sự phát triển và quản lý đô thị là: thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan của Chính phủ, giữa các nhà hoạt động thuộc Chính phủ và Phi chính phủ; thiếu những người có năng lực về kỹ thuật và quản lý thích hợp, thiếu những thông tin và dữ liệu.

Chính phủ cần phải xem xét và cải thiện cơ sở hạ tầng về thiết chế để đảm bảo sự hợp tác giữa các cơ quan và tổ chức khác nhau, tăng cường đầu tư vào nguồn nhân lực trong quản lý và phát triển, đặc biệt là trong quản lý và quy hoạch đô thị. Việc tăng cường sự phối hợp, cơ cấu tổ chức và nguồn nhân lực vẫn không đủ nếu thiếu những thông tin chính xác và tin cậy về các vấn đề đô thị.

Quản lý đô thị trung tâm chính trị, hành chính quốc gia

Trong một đất nước, thủ đô đóng vai trò hết sức quan trọng. Đó thường là một trung tâm tổng hợp: là trung tâm chính trị, hành chính quốc gia bên cạnh các chức năng khác như trung tâm kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật, đào tạo, giáo dục, du lịch, dịch vụ, giao lưu kinh tế,…

Trung tâm chính trị, hành chính quốc gia có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đây là nơi kế thừa các di tích lịch sử hình thành đô thị, nơi có những trang thiết bị hiện đại với các công trình công cộng có giá trị, nơi tập trung các cơ quan đầu não của thành phố, quốc gia và kể cả quốc tế, nơi có nhu cầu về tính trang nghiêm, hoành tráng. Đây còn là nơi kết hợp của các loại hình nhà ở cùng với hệ thống quảng trường, cây xanh cảnh quan đô thị. Trung tâm là nơi thường xuyên có không khí tấp nập, nhộn nhịp với số lượng người lớn và đa dạng, hoạt động liên tục ngày đêm.

Để việc quản lý đô thị trung tâm chính trị, hành chính quốc gia tốt, những lĩnh vực cần được quan tâm quản lý là:

- Quy hoạch xây dựng;

- Kiến trúc;

- Đầu tư xây dựng;

- Di sản; cảnh quan đô thị;

- Kết cấu hạ tầng;

- Khoa học công nghệ và môi trường đô thị;

- Đất đai, thị trường bất động sản; nhà, đất;

- Kinh tế và tài chính đô thị;

- Văn hoá, giáo dục, xã hội;

- Hành chính đô thị;

- Dân số, xã hội và phát triển nguồn nhân lực.

Như vậy, quản lý đô thị bao gồm nhiều lĩnh vực, nhưng chủ yếu là quản lý quy hoạch kiến trúc đô thị, sử dụng đất đai, đầu tư và phát triển nhà và cơ sở hạ tầng công cộng, tài chính, hành chính, môi trường đô thị và an ninh trật tự xã hội, v.v… Các lĩnh vực quy hoạch kiến trúc cần quản lý tại trung tâm chính trị, hành chính quốc gia có thể kể đến là:

Về sử dụng đất: cần xác định các khu vực khuyến khích phát triển, khu vực cấm phát triển và các khu vực phát riển phải có điều kiện. Cần quan tâm đến những khu vực có thể mở rộng, thay thế chức năng; khu vực cần kết hợp giữa nhà ở và công trình hành chính, nhà ở và nơi kinh doanh.

Về hình thức xây dựng: bản sắc và cảnh quan trung tâm hành chính thành phố: cần quan tâm đến chiều cao công trình, khoảng lùi, mật độ và hệ số sử dụng đất. Xây dựng các khu vực có phong cảnh đặc biệt, cây xanh công viên phong phú là góp phần làm tăng thêm giá trị của trung tâm đô thị.

Cần bảo tồn, tôn tạo các công trình di sản, di tích, đây là các công trình mang bản sắc đô thị. Phải cân bằng giữa việc chi phí cho xây dựng cơ bản mới và duy tu công trình phục vụ sẵn có trong trung tâm đô thị.

Về môi trường và tiện nghi: Tăng cường và nâng cao chất lượng môi trường công cộng, không gian trống, quảng trường, cây xanh đô thị, lối đi cho người tàn tật, biển báo, biển quảng cáo. Giải pháp chiếu sáng bằng ánh mặt trời, giảm tiếng ồn đô thị là những việc làm nâng cao chất lượng sống của đô thị.

Hệ thống giao thông, đường sá cần đảm bảo đầy đủ và an toàn: Triển khai những chính sách toàn diện về giao thông vận tải, tăng cường hệ thống giao thông vận tải công cộng. Có đầy đủ nơi đỗ xe công cộng, bến xe buýt. Chú ý hệ thống đường đi bộ, đường xe đạp. Cần lập một cơ quan thống nhất về giao thông, đóng vai trò quyết định cho chính quyền đô thị.

Hệ thống công trình phục vụ công cộng đầy đủ tiện nghi là những nhu cầu thiết yếu cho một trung tâm đô thị, đặc biệt ở tầm cỡ quốc gia. Cung ứng đầy đủ việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu, đầu tư đầy đủ và có chất lượng và giáo dục và đào tạo cũng như đào tạo lại đối với lực lượng lao động đô thị.

Thiết lập hệ thống thông tin đô thị. Chính phủ cần cải tiến hệ thống thông tin và thu thập dữ liệu của mình, làm cho các hệ thống này chính xác hơn và phù hợp hơn với các vấn đề đô thị.

Tóm lại, quản lý đô thị một trung tâm chính trị, hành chính quốc gia cần quan tâm đến nhiều lĩnh vực, từ hành chính, môi trường đô thj và an ninh trật tự xã hội, tài chính, đầu tư và phát triển nhà và cơ sở hạ tầng công cộng và đặc biệt là quản lý quy hoạch kiến trúc, sử dụng đất đai đô thị. Việc quản lý được thực hiện tốt thì công cuộc phát triển đô thị mới được tiến hành đồng bộ, đảm bảo phát triển bền vững.

Kết luận

Quản lý đô thị là một lĩnh vực rộng lớn, bao gồm nhiều khía cạnh của xã hội, từ an ninh chính trị, kinh tế tài chính của đô thị đến đời sống của mỗi người dân, từ quy hoạch sử dụng đất đến chi tiết hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị. Quản lý đô thị có những mục tiêu, nội dung và nhiệm vụ cụ thể nhằm tạo điều kiện cho đô thị phát triển nhanh chóng và bền vững.

Trong mỗi thời kỳ lịch sử, vai trò của nhà nước về quản lý đô thị có những đặc điểm riêng phù hợp với cơ chế phát triển kinh tế. Trong nền cơ chế thị trường, vai trò của chính quyền nhà nước ở mọi cấp độ đều thay đổi, thường đảm nhận bốn vai trò mới trong lĩnh vực làm việc với khối tư nhân, họ là Nhà phát triển; người hỗ trợ; người điều phối và là người khuyến khích.

Thủ đô của một đất nước thường là một trung tâm tổng hợp, trong đó Trung tâm chính trị, hành chính quốc gia có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đây là nơi tập trung các cơ quan đầu não của trung ương, chính quyền thành phố và là nơi hoạt động thường xuyên của mọi người dân.

Là một trung tâm chính trị, hành chính quốc gia, là bộ mặt của Việt Nam về phát triển đô thị, Hà Nội đang gánh vác những trọng trách to lớn. Thủ đô Hà Nội chỉ có thể phát triển nhanh chóng và bền vững khi việc xây dựng và phát triển đô thị được gắn kết chặt chẽ với quản lý đô thị.

Công tác quản lý đô thị là nhiệm vụ của tất cả mọi người, mọi cấp, từ Chính phủ đến chính quyền thành phố và mỗi người dân. Đối với Hà Nội 1000 năm lịch sử, với sự tham gia của cả cộng đồng vào công tác quản lý đô thị, chúng ta đang từng bước xây dựng một thủ đô văn minh, hiện đại, ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.

Chủ Đề