Phương pháp điều chỉnh của luật dân sự là gì

Luật dân sự là ngành luật trong hệ thống pháp luật, là tổng hợp những quy phạm điều chỉnh các quan hệ tài sản và một số quan hệ nhân thân trong giao lưu dân sự trên cơ sở bình đẳng, tự định đoạt và tự chịu trách nhiệm của các chủ thể tham gia các quan hệ dân sự. Luật dân sự gồm các nguyên tắc cơ bản và có chế định khác nhau như: chế định tài sản và quyền sở hữu; chế định nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự; chế định nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật; chế định thực hiện công việc không có ủy quyền; chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; chế định thừa kế; chế định chuyển quyền sử dụng đất; chế định quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ. Mỗi chế định của luật dân sự đều có những nguyên tắc riêng trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản và có những quy phạm được tập hợp theo những tiêu chí riêng phù hợp với chế định đó.

I. Khái niệm luật dân sự.

Luật dân sự: là một ngành luật độc lập trong quan hệ thống pháp luật nhà nước VN, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật dân sự do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân thân phi tài sản hoặc có liên quan đến tài sản của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác, dựa trên nguyên tắc bình đẳng về mặt pháp lí, quyền tự định đoạt, quyền khởi kiện dân sự và trách nhiệm tài sản của những người tham gia quan hệ đó.

II. Đối tượng và phương pháp điều chỉnh của luật Dân sự?

+ Đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự: là những quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân trong quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng các sản phẩm hàng hoá nhằm thoả mãn nhu cầu hàng ngày của các thành viên trong xã hội.

+ Phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự: là những biện pháp, cách thức mà nhà nước tác động lên các quan hệ tài sản, các quan hệ nhân thân là cho các quan hệ này phát sinh, thay đổi, chấm dứt theo ý chí của nhà nước và có …

III. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

Bộ luật này quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm [sau đây gọi chung là quan hệ dân sự].

Điều 2. Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự

1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền dân sự được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.

2. Quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.

Điều 3. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự

1. Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản.

2. Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.

3. Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực.

4. Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

5. Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự.

Điều 4. Áp dụng Bộ luật dân sự

1. Bộ luật này là luật chung điều chỉnh các quan hệ dân sự.

2. Luật khác có liên quan điều chỉnh quan hệ dân sự trong các lĩnh vực cụ thể không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này.

3. Trường hợp luật khác có liên quan không quy định hoặc có quy định nhưng vi phạm khoản 2 Điều này thì quy định của Bộ luật này được áp dụng.

4. Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Bộ luật này và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế.

Điều 5. Áp dụng tập quán

1. Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự.

2. Trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này.

Điều 6. Áp dụng tương tự pháp luật

1. Trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự.

2. Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng.

Điều 7. Chính sách của Nhà nước đối với quan hệ dân sự

1. Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự phải bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp, tình đoàn kết, tương thân, tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.

2. Trong quan hệ dân sự, việc hòa giải giữa các bên phù hợp với quy định của pháp luật được khuyến khích.

Phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự là những cách thức, biện pháp tác động của ngành luật đó lên các quan hệ xã hội mang tính tài sản và các quan hệ xã hội mang tính nhân thân làm cho các quan hệ xã hội đó phát sinh, thay đổi hay chấm dứt phù hợp với ý chí và lợi ích của Nhà nước.

Phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự Việt Nam có các đặc trưng sau:

– Chủ thể tham gia vào các quan hệ độc lập và bình đẳng với nhau về tổ chức và tài sản. Sự bình đẳng này thể hiện ở chỗ không có bên nào có quyền ra lệnh, áp đặt ý chí của mình cho bên kia

– Các chủ thể tham gia quan hệ tài sản tự định đoạt, tự do cam kết, thỏa thuận nhằm vào những mục đích, nhu cầu, lợi ích nhất định của họ nhưng phải “không trái với pháp luật và đạo đức xã hội” và “không xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”.

– Các quyền dân sự của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự được chia thành quyền đối nhân và quyền đối vật.

+ Quyền đối nhân là quyền của chủ thể quyền đối với chủ thể nghĩa vụ, đòi hỏi chủ thể nghĩa vụ phải thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định nhằm thoả mãn nhu cầu về mọi mặt của mình.

+ Quyền đối vật là quyền của chủ thể quyền thực hiện một cách trực tiếp hoặc một số hành vi nhất định đối với một hoặc một khối tài sản.

Phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự chủ yếu nhằm tác động, thúc đẩy các hành vi tích cực, chủ động và sáng tạo của các chủ thể trong việc thiết lập và thực hiện các quan hệ dân sự, do vậy trong phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự, ngoài những quy phạm cấm, quy phạm mệnh lệnh thì phần lớn là các quy phạm tùy nghi, quy phạm định nghĩa hướng dẫn cho các chủ thể tham gia những xử sự pháp lý phù hợp.

Đặc trưng của phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự là tạo cho các chủ thể tham gia vào quan hệ đó quyền tự thoả thuận – hoà giải để lựa chọn cách thức, nội dung giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Trong trường hợp không thể hoà giải hoặc thỏa thuận được thì có thể giải quyết các tranh chấp bằng con đường Tòa án theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự và chủ yếu là trên cơ sở yêu cầu của một trong các bên.

Các biện pháp bảo vệ do Toà án và cơ quan nhà nước có thẩm quyền tạo cho chủ thể của quan hệ dân sự quy định gồm có: công nhận quyền dân sự của mình, buộc chấm dứt hành vi vi phạm, buộc xin lỗi cải chính công khai, buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự, buộc bồi thường thiệt hại.

Tương tự như luật hình sự, luật lao động, luật hành chính,… Luật Dân sự là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam nởi nó có khái niệm riêng, hệ thống các nguyên tắc đặc thù, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh riêng.

Những nội dung liên quan:

Khái niệm Luật dân sự

Luật dân sự là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng thể các quy phạm điều chỉnh các quan hệ tài sản và một số quan hệ nhân thân trong giao lưu dân sự trên cơ sở bình đẳng, tự định đoạt và tự chịu trách nhiệm của các chủ thể tham gia các quan hệ dân sự.

Đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự là quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân trong các giao lưu dân sự.

Quan hệ tài sản

Quan hệ tài sản là quan hệ giữa người với người thông qua một tài sản nhất định. Theo điều 172 Bộ Luật Dân sự khái niệm tài sản bao gồm: tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền, các quyền về tài sản. Tài sản trong Luật Dân sự được hiểu theo nghĩa rộng không chỉ là vật thuộc về ai, do an chiếm hữu, sử dụng, định đoạt mà bao gồm cả việc dịch chuyển tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác.

Đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự

Quan hệ tài sản do lãnh đạo điều chỉnh gồm 5 nhiệm vụ:

  • Quan hệ về sở hữu [bao gồm cả sở hữu trí tuệ]
  • Quan hệ về nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự
  • Quan hệ về thừa kế
  • Quan hệ về chuyển quyền sử dụng đất
  • Quan hệ về bồi thường thiệt hại

Các quan hệ tài sản do Luật dân sự điều chỉnh là quan hệ tài sản mang tính chất hàng hoá tiền tệ và có các đặc điểm sau:

  • Được hình thành theo quy luật giá trị nói chung là sự đền bù ngang giá. Sự đền bù tương đương là đặc trưng của các quan hệ dân sự. Tuy nhiên, trong giao lưu dân sự cũng tồn tại những quan hệ không mang tính chất đền bù tương đương [tặng, cho, thừa kế] . Nhưng những quan hệ này không phải là cơ bản và phổ biến.
  • Quan hệ tài sản luôn mang tính ý chí, đó chính là mục đích và động cơ của các chủ thể tham gia quan hệ tài sản. Tuy nhiên, ý chí của các chủ thẻ phải phù hợp với ý chí Nhà nước.
  • Đối tượng của quan hệ tài sản là những tài sản theo quy định của pháp Luật Dân sự và phải là những tài sản được phép lưu thông.

Nói một cách chung nhất quan hệ tài sản do Luật dân sự điều chỉnh là những quan hệ kinh tế xã hội cụ thể thông qua việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với một tài sản nhất định theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và tuân theo quy luật giá trị.

Quan hệ nhân thân

Quan hệ nhân thân là quan hệ giữa người với người về một giá trị thân nhân của cá nhân tổ chức được pháp luật thừa nhận. Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi chủ thể và về nguyên tắc không thể dịch chuyển cho chủ thể khác.

Các quan hệ nhân thân do Luật dân sự điều chỉnh chia làm hai nhóm:

  • Quan hệ nhân thân không gắn liền với tài sản [quyền tác giả, quyền và tên gọi, hình ảnh, uy tín].
  • Quan hệ nhân thân gắn liền với tài sản [quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp].

Phương pháp điều chỉnh được hiểu là cách thức tác động lên các quan hệ xã hội do ngành luật đó điều chỉnh. Cách thức tác động này nhằm hướng tới việc điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh, thay đổi hay chấm dứt sao cho phù hợp với điều kiện chính trị – kinh tế – xã hội cũng như đặc điểm của nhóm quan hệ xã hội đó.

  • Phương pháp bình đẳng về mặt pháp lý giữa các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp Luật Dân sự.
  • Phương pháp tự định đoạt của các chủ thể trong việc tham gia vào các quan hệ dân sự.
  • Phương pháp tự chịu trách nhiệm của các chủ thể
  • Tham gia quan hệ pháp Luật Dân sự

– Phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự có đặc điểm đặc trưng là khi điều chỉnh các quan hệ pháp Luật Dân sự thì luôn đảm bảo sự bình đẳng về địa vị pháp lý và độc lập về tổ chức và tài sản.

+ Bình đẳng về địa vị pháp lý: Tức là không có bất kỳ sự phân biệt nào về địa vị xã hội, tình trạng tài sản, giới tính, dân tộc… giữa các chủ thể.

+ Độc lập về tổ chức và tài sản:

  • Tổ chức: Không có sự phụ thuộc vào quan hệ cấp trên – cấp dưới, các quan hệ hành chính khác.
  • Tài sản: Khi tham gia vào quan hệ pháp Luật Dân sự, cá nhân, tổ chức hoàn toàn độc lập với nhau, không có sự nhầm lẫn hay đánh đồng giữa tài sản của cá nhân với tài sản của tổ chức…

+ Các chủ thể trong quan hệ pháp Luật dân sự có quyền tự định đoạt và pháp luật bảo đảm cho họ thực hiện quyền.

Tự định đoạt là tự do ý chí và thể hiện ý chí khi tham gia vào các quan hệ pháp Luật Dân sự, biểu hiện của quyền tự định đoạt trong quan hệ pháp Luật dân sự là:

  • Thứ nhất: chủ thể tự lựa chọn quan hệ mà họ muốn tham gia.
  • Thứ hai: chủ thể tự lựa chọn chủ thể tham gia quan hệ dân sự với mình.
  • Thứ ba: được tự do lựa chọn biện pháp, cách thức để thực hiện, quyền và nghĩa vụ: Biện pháp và  cách  thức là  những phương thức mà các bên sử dụng để thực hiện nghĩa vụ của mình cho bên có quyền.
  • Thứ tư: các chủ thể tự lựa chọn và thỏa thuận với nhau các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, cách thức xử lý tài sản khi có sự vi phạm.

– Trách nhiệm tài sản là điểm đặc trưng của phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự:

Mặc dù  pháp Luật dân sự điều chỉnh cả quan hệ nhân thân với quan hệ tài sản nhưng các quan hệ tài sản chiếm phần lớn, đại đa số. Các quan hệ tài sản này mang tính chất hàng hóa tiền tệ nên sự vi phạm của một bên thường dẫn đến sự thiệt hại về tài sản của bên còn lại. Nên bên cạnh các loại trách nhiệm khác như cải chính, xin lỗi công  khai…thì  trách nhiệm tài  sản là  loại trách nhiệm phổ biến nhất trong phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự. Bên vi phạm nghĩa vụ thường bị bên bị xâm phạm yêu cầu bồi thường thiệt hại để khôi phục tình trạng tài sản như lúc chưa bị vi phạm và thông thường được hưởng một khoản tiền bồi  thường, hoặc một tài sản cùng loại… [dựa trên thỏa thuận của các bên].

– Đặc trưng của phương pháp giải quyết các tranh chấp dân sự là tự thỏa thuận và hòa giải:

+ Tự thỏa thuận và  hòa  giải được luật hóa tại Điều 4 Bộ Luật dân sự “Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận” và Điều 12 Bộ Luật dân sự “Nguyên tắc hòa giải”.

+ Đặc trưng của phương pháp giải quyết các tranh chấp này xuất phát từ chính tính chất của các quan hệ pháp Luật Dân sự. Quan hệ dân sự là sự bình đẳng và tự định đoạt nên các  chủ thể thường lựa chọn phương pháp thỏa thuận để giải quyết tranh chấp. Hơn nữa, chỉ có phương pháp thỏa thuận và hòa giải giữa các bên tham gia quan hệ dân sự mới đảm bảo một cách tối ưu nhất lợi ích giữa các bên. Với phương pháp này sẽ tạo điều kiện các bên dung hòa được lợi ích của mình  với lợi ích của chủ thể kia. Khi lợi ích được dung hòa ở mức độ tối đa thì sẽ tạo điều kiện để các bên thực hiện nghĩa vụ của mình và chính vì thế mà đảm bảo cho lợi ích của bên kia.

Phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự

Luật dân sự là gì?

Luật dân sự là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng thể các quy phạm điều chỉnh các quan hệ tài sản và một số quan hệ nhân thân trong giao lưu dân sự trên cơ sở bình đẳng, tự định đoạt và tự chịu trách nhiệm của các chủ thể tham gia các quan hệ dân sự.

Đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự

Đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự là quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân trong các giao lưu dân sự.

Phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự

Phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự là cách thức tác động lên các quan hệ xã hội do ngành luật dân sự điều chỉnh, bao gồm: – Phương pháp bình đẳng về mặt pháp lý giữa các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp Luật Dân sự;– Phương pháp tự định đoạt của các chủ thể trong việc tham gia vào các quan hệ dân sự;– Phương pháp tự chịu trách nhiệm của các chủ thể;– Tham gia quan hệ pháp Luật Dân sự.

>>> Vui lòng truy cập Hocluat.vn xem chi tiết nội dung bài viết.

Các tìm kiếm liên quan đến Phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự, phương pháp điều chỉnh của luật hình sự, phương pháp bình đẳng thỏa thuận trong Luật Dân sự, ví dụ đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự, phương pháp mệnh lệnh trong Luật Dân sự, phương pháp điều chỉnh của luật hành chính, phương pháp bình đẳng thỏa thuận là gì, phương pháp điều chỉnh là gì, tính thỏa thuận trong phương pháp điều chỉnh của Luật Dân sự

Đối tượng điều chỉnh, Luật dân sự, Ngành luật, Ngành luật độc lập, Phương pháp điều chỉnh, 9557

Video liên quan

Chủ Đề