Phần tích tính nhân đạo đối với phụ nữ trong các chế định dân sự của bộ luật Hồng Đức

*Tại sao nói bộ luật hồng đức mang tính dân tộc , nhân đạo và tính nhân dân sâusắc? tìm những chế định mang tính kế thừa của phấp luật hiện nay?- giới thiệu sơ lược về bộ luật hồng đức- phân tích tính dân tộc , nhân đạo, nhân dân bằng cách dẫn các chế định vào- sau đó nêu các điểm tiến bộ và kế thừa cho đến nay vẫn còn sử dụngBài làm:Bộ Luật Hồng Đức ( hay còn gọi Quốc triều hình luật; Lê Triều hình luật ) là một bộ luật điển hình, hoànthiện nhất trong lịch sử Nhà nước phong kiến Việt Nam. Về giá trị lịch sử, bộ luật phản ánh trung thực trạngthái chính trị, kịnh tế, xã hội nước ta thế kỷ XV. Bộ luật chứa đựng nhiều nội dung tiến bộ, nhân văn sâu sắc, kỹthuật pháp lý hoàn thiện hơn so với các bộ luật cùng thời, có những điểm tiếp cận gần với kỹ thuật pháp lý hiệnđại. Bộ Luật Hồng Đức đã trải qua một quá trình xây dựng lâu dài từ thời Lê Thái Tổ, đến thời Lê Thánh Tôngmới hoàn thành. Thực ra, Bộ luật đó không phải do Lê Thánh Tông sáng tạo ra, cũng không phải được xâydựng riêng trong những năm Hồng Đức (1470-1497), mà là sản phẩm của một thời kỳ phát triển cực thịnh củachế độ phong kiến tập quyền Việt Nam, trong cả thời Lê sơ. Công lao của triều vua Lê Thánh Tông là đã sanđịnh các luật lệ của những triều vua trước để hoàn thành bước xây dựng bộ pháp điển ấy. Các triều đại phongkiến thời Lê Trung Hưng (1533-1789) sau này vẫn lấy Bộ Luật Hồng Đức làm quy tắc mẫu mực, chỉ sửa đổi, bổsung thêm một số điều khoản phụ cho thích hợp với hoàn cảnh xã hội đương thời. Bộ Luật Hồng Đức còn lạihiện nay (đã được các triều vua thời Lê Trung Hưng bổ sung thêm) gồm 13 chương, 722 điều, chia làm 6 quyển:+Quyển 1 có 2 chương: Danh lệ 49 điều và Cấm vệ 47 điều;+Quyển 2 có 2 chương: Vi chế 144 điều và Quân chính 43 điều.+Quyển 3 có 6 chương: Hộ hôn 58 điều; Điền sản 32 điều; cuối chương tăng điền sản 14 điều; Tăng bổ thêmvề luật hương hỏa 4 điều và tăng bổ tham chức hiệu đính hương hỏa 9 điều. Tổng cộng 59 điều.+Quyển 4 có 2 chương: Đạo tặc 54 điều và Đấu ẩu 50 điều;+Quyển 5 có 2 chương: Trá ngụy 38 điều và Tạp luật 92 điều;+Quyển 6 có 2 chương: Bộ vong 13 điều và Đoản ngục 65 điều.Có thể nói rằng Bộ Luật Hồng Đức là bộ luật được nhiều nhà khoa học trong nước và nước ngoài đánh giá rất cao vềnhiều phương diện trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Luật pháp thời này nghiêm đến mức "của rơi ngoài đườngkhông ai nhặt, nhà nhà đêm ngủ mở cửa không phải lo trộm cướp". Đây là Bộ luật không những mang tính dân tộc màcòn mang tính nhân đạo và nhân dân sâu sắc bao gồm nhiều thuộc nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau như: Lĩnh vựcluật hình sự, luật dân sự, luật tố tụng, luật hôn nhân-gia đình, luật hành chính… Lịch sử đã chứng minh điều đó.•Về tính dân tộc thể hiện ở những điểm sau:---Về phương pháp làm luật:Bộ Luật Hồng Đức là sự kế thừa thành tựu lập pháp của các triều vua Lê trước đó và trên cơ sở quan hệkinh tế - xã hội mới phát sinh cần có sự điều chỉnh của pháp luật mà Lê Thánh Tông đã ban hành một sốđiều luật bổ sung. Chương Điền Sản gồm 32 điều có nội dung điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ chế độ sởhữu Nhà Nước về ruộng đất được ban hành dưới triều Vua Lê Thái Tổ. Chương điền sản mới tăng thêm gồm14 điều, điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ chế độ tư hữu ruộng đất được ban hành dưới triều Vua Lê NhânTông. Chương Tăng bổ tham chước hiệu đính hương hỏa gồm 9 điều được Lê Thánh Tông bổ sung điềuchỉnh quan hệ thừa kế ruộng hương hỏa. Như vậy, bộ luật thể hiện rõ nét sự phát triển kinh tế- xã hội nội tạicủa chế độ phong kiến Việt Nam.Về hình thức bộ luật:Mặc dù về cơ cấu bộ luật, về thuật ngữ, khái niệm pháp lý các nhà làm luật Hồng Đức có tiếp thu thànhtựu lập pháp của các triều đại phong kiến Trung Quốc nhưng bộ luật Hồng Đức vẫn phần nào thoát ly đượcvề hình thức so với bộ luật phong kiến Trung Quốc điển hình. Ta có thể so sánh bộ luật Hồng Đức với bộĐường luật về hình thức. Bộ luật Đường gồm 12 chương chia làm 12 quyển. Trong khi đó Luật Hồng Đứcgồm 16 chương chia làm 6 quyển. Các nhà làm luật Hồng Đức đã sắp xếp những chương điều chỉnh cácnhóm quan hệ xã hội có tính chất gần giống nhau hoặc liên quan đến nhau trong một chương. Quyển thứ 3của bộ luật gồm 6 chương điều chỉnh các quan hệ hôn nhân, tài sản và thừa kế kiên quan chặt chẽ với nhau.Về Nội dung: Tính dân tộc thể hiện đậm nét trong việc kế thừa và phát huy những thành tựu pháp luật củacác triều đại trước, kết hợp với những ưu điểm của pháp luật phong kiến Trung Hoa để xây dựng lên một bộluật phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam.+ Phong tục tập quán là nguồn luật rất quan trọng của QTHL. Các hương ước là phong tục tập quánđược Nhà nước thừa nhận và ghi nhận trong pháp luật thành văn. Các nhà làm luật triều Lê đã tiếp thu cácgiá trị văn hoá của dân tộc thông qua các phong tục tập quán vốn có từ lâu đời và đang được thực hiệntrong cuộc sống của quần chúng nhân dân, đưa chúng vào hệ thống PL của triều đình. Việc áp dụng cácphong tục tập quán như vậy đã làm cho các điều khoản của bộ luật phù hợp, sát với thực tế đời sống, dễhiểu, dễ thực hiện do đó có tính khả thi cao.+QTHL là pháp luật hướng Nho nhưng có sự biến đổi linh hoạt phù hợp với hoàn cảnh của nước ta.PLPKVN đã áp dụng nhiều phong tục tập quán của dân tộc. Sở dĩ như vậy là do triều đình đã nhận thức rõsức mạnh của quần chúng nhân dân đối với sự vững mạnh của xã tắc, sự thịnh suy của triều đình. Việc ápdụng các phong tục tập quán trong nhiều trường hợp là có lợi cho sự vững mạnh của triềi đình. Mặt khác,đối với các phong tục truyền thống liên quan đến kinh tế, sở hữu, thừa kế thì sự thay đổi không hề đơn giản.Những nhân tố đó ảnh hưởng, chi phối đời sống hằng ngày của dân chúng và gắn vó chặt chẽ với cácphong tục tập quán khác như hôn nhân, thờ cúng tổ tiên. Việc thay đổi các phong tục đó có thể vấp phải sựchống đối mạnh mẽ từ các tầng lớp nhân dân và đó là điều không có lợi cho sự vững mạnh của triều đình.Phong tục tập quán được áp dụng trong nhiều trường hợpTính dân tộc của bộ luật thể hiện thông qua các chế định hôn nhân, chế định thừa kế, chế độ tài sảngiữa vợ - chồng, chế định nuôi con nuôi, cụ thể:+ Về chế định hôn nhân:Điều 314, QTHL quy định việc kết hôn rất phù hợp với phong tục tập quán của nước ta. Điều kiện kếthôn duy nhất là phải có sự đồng ý của cha mẹ hoặc của những bậc bề trên khác(trưởng họ) trong trường hợpcha mẹ đã chết.Về hình thức kết hôn: Sự đính hôn chỉ coi là có hiệu lực về mặt pháp lý khi nhà người gái nhận đồsính lễ mà nhà trai mang sang, đó là hình thức hứa hôn. Lễ trao và nhận dẫn cưới phải thực hiện một cáchtrọng thể với sự có mặt của cha mẹ trong khi đó PL nhà Đường quy định việc đính hôn nhà gái phải làm mộtvăn thư phúc đáp lại hôn thư của nhà trai mới có giá trị pháp lý. Điều này rõ ràng không phù hợp với phongtục tập quán của nhân dân ta.Ngoài ra QTHL còn tiếp thu truyền thống tôn trọng người phụ nữ của dân tộc ta . QTHL thừa nhậnquyền ly hôn của người vợ trong một số trường hợp nhất định, ví dụ trong trường hợp: Người chồng viphạm nghĩa vụ phải thực hiện đầy đủ quan hệ vợ chồng(Điều 308), người chồng mắng nhiếc mẹ vợ vôlý(Điều 333) thì vợ có quyền ly hôn.Bên cạnh đó LHĐ thừa nhận quyền có tài sản riêng của người phụ nữ. Quyền sở hữu cá nhân của vợđược đặt ra khi hôn nhân chấm dứt do chồng chết hoặc trong trường hợp ly hôn không do lỗi người vợ; Tàisản ruộng đất của 2 vợ chồng tạo nên trong thời kì hôn nhân được chia làm 2 phần bằng nhau, vợ và chồngmỗi người một phần; vợ có thể thừa kế tài sản ruộng đất trong trường hợp: chồng chết nhưng chưa có con,vợ chồng đã có con nhưng chồng chết, con cũng chết,…QTHL còn tiếp thu truyền thống con cháu được quyền ra ở riền khi cha mẹ còn sống. Theo PL TQđây là tội đại bất hiếu. Tuy nhiên, PL triều Lê chấp nhận điều đó. Điều 347 quy định con cái đủ 15 tuổiđược cấp ruộng đất để tự nuôi sống bản thân… Do sự kết hợp các phong tục tập quán lâu đời của VN vớiđạo đức Nho giáo, hoà nhập chúng vào hệ thống pháp luật của triều đình mà mối quan hệ cha mẹ và concái trong QTHL không có tính chất tuyệt đối phục tùng, tuyệt đối định đoạt như Nho Giáo.Như vậy, tính dân tộc độc đáo và đặc sắc đã làm cho QTHL không chỉ là công cụ thống trị của riênggiai cấp thống trị mà thực sự thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân thông qua các phong tục tập quántruyền thống.•Mặt khác, Bộ luật Hồng Đức còn mang tính nhân dân, thể hiện ở những điểmsau:--Luật bảo vệ quyền làm dân tự do, chống lại nô tỳ hóa(Điều 365) và bảo vệ cuộc sống của những người dânnghèo khổ không nơi nương tựa(Điều 249, Điều 295)Về chính sách ruộng đất, trong điều 342, 382, 383, 384 luật đã quy định và điều chỉnh các quan hệ trongviệc mua bán cầm cố và thừa kế ruộng đất . việc mua bán được thể hiện khi 2 bên tự nguyện và cùng ký kếtvào một bản hợp đồng .Có các Các điều luật nhằm bảo vệ và tạo điều kiện cho ruộng đất phát triển ( ví dụ :cấm hành vi chiếm đoạt và tranh giành ruộng đất ...)Luật bảo vệ sản xuất nông nghiệp và trật tự an ninh xã hội( Điều 248, Điều 349, Điều 596…)+ Về nông nghiệp, có quy định đã tập trung bảo vệ tư liệu sản xuất hay sức lao động trong sản xuất nôngnghiệp , khiến khích phát triển kinh tếVí dụ: trừng phạt nặng hành vi phá hoại đê điều ( Điều 596) chặt phá cây cối và lúa má của người khác( Điều 601) tự tiện giết trâu ngựa ( điều 586) thả trâu ngựa phá hoại hoa màu của nông dân (Điều 581)+ Nông dân: bảo vệ quyền lợi của nông dân, hạn chế sự ức hiếp của quan lại với nông dânBảo vệ quyền sở hữu tài sản của công dân, trừng trị nghiêm khắc những hành vi ức hiếp, đục khoét dân lànhcủa quan lạiTrong Bộ luật Hồng Đức đã có những điều luật quy định việc trừng phạt những hành vi vi phạm quyềnchiếm hữu, quyền sử dụng và định đoạt ruộng đất của người nông dân như: Tranh giành đất đai trái với chúcthư (đ.354), nhận bừa ruộng đất của người khác (đ.344), hà hiếp, bức hại để mua ruộng đất của người khác(đ.355), tá điền cấy rẽ mà trở mặt ăn cướp (đ.356), xâm lấn bờ cõi ruộng đất, nhổ bỏ giới mốc (đ.357), chặtcây trong khu mộ địa của người khác (đ.358), cấy trộm vào phần đất, phần mộ của người khác, chôn cấttrộm vào ruộng của người khác (đ.359), ruộng đất đang tranh chấp mà đánh người để gặt lấy lúa má (đ.360),cấy rẽ ruộng công hay tư, không báo cho chủ mà tự tiện đến gặt (đ.361), các nhà quyền quý chiếm đoạtruộng đất ao đầm của nhân dân, từ một mẫu trở lên thì xử tội phạt, từ năm mẫu trở lên thì xử tội biếm. Quantam phẩm trở xuống thì xử tăng thêm hai bậc và phải bồi thường như luật định (đ.370).•-Bộ luật Hồng Đức còn có cả những điều quy định nhằm bảo vệ quyền sở hữu ruộng đất cho trẻ em và ngườigià như: "Chồng chết con còn nhỏ, vợ tái giá mà bán điền sản của con (đ.377), cha mẹ còn sống mà bántrộm điền sản (đ.378), người trong họ tự tiện bán ruộng của đứa cháu mồ côi (đ.379) đều bị xử phạt".-Luật bảo vệ nền kinh tế tư hữu của dân đinh, chống sự hà hiếp, quấy nhiễu của cường hào, quan lại (Điều296,Điều 336, Điều 370, Điều 378, Điều 636…)Bên cạnh đó, tính nhân đạo cũng là một nét nổi bật của bộ luật Hồng Đức:-Một là, tính nhân đạo đối với người phạm tội:Điều luật đầu tiên đề cập đến vấn đề này là Điều 16, mà theo đó, những người phạm tội từ 70 tuổi trởlên, 15 tuổi trở xuống và những kẻ phế tật (tức những kẻ si, câm, cơ thể què quặt, gẫy tay chân) phạm tộilưu, đồ trở xuống được chuộc bằng tiền; 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống và những kẻ bệnh nặng (là nhữngác tật như điên cuồng, tay chân bại liệt, mù hai mắt) phạm tội phản nghịch, giết người, đáng lẽ phải xử tửthì trong trường hợp này phải tâu lên để vua quyết định. Những người này phạm tội trộm, đánh người bịthương thì cũng cho chuộc tội; 90 tuổi trở lên, 7 tuổi trở xuống, dù phạm tử tội cũng không áp dụng hìnhphạt.Xử lý tội phạm, Điều 17 Bộ luật Hồng Đức còn lưu ý đến thời điểm phạm tội sao cho có lợi cho tộinhân khi áp dụng luật, theo đó “khi phạm tội chưa già, tàn tật. Khi già, tàn tật mới phát giác tội thì xử tộitheo luật già, tàn tật…Khi còn nhỏ mà phạm tội, khi lớn mới phát giác tội thì xử tội theo luật tuổi nhỏ ”.Nghiêm cấm áp dụng hình thức tra khảo với một số đối tượng và vấn đề liên quan đến người làm chứng, tạiĐiều 665, quy định: “Những người đáng được nghị xét giảm tội như 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống,người bị phế tật thì không được tra khảo họ, chỉ cần căn cứ lời khai của nhân chứng mà định tội.Nếu trái luật này thì coi như cố ý buộc tội cho người. Luật có ghi điều được phép ẩn giấu cho nhau nhưngười 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống và người bệnh nặng đều không được buộc họ làm chứng”Với những trường hợp nhất định, pháp luật nghiêm cấm việc đối xử bạo ngược với tù nhân, nhưtrường hợp người tù bị mắc bệnh thì không được tiến hành tra khảo, cụ thể, Điều 669, quy định: “… Nếu tùcó bệnh ung nhọt, không chờ lành lại tra khảo thì người ra lệnh bị xử biếm. Nếu tù bệnh ấy mà đánh roi,trượng thì phạt 30 quan tiền, nhân đó tù chết thì bị biếm 2 tư…” . Theo Điều 697, trường hợp phải nộp tiềnứng với tang vật bị tịch thu nhưng với hoàn cảnh của tội nhân nghèo khổ cùng cực không nộp nổi thì thuộclại được phép trình bản ty, để nơi đây tâu lên vua định đoạt.-Bên cạnh đó để tránh việc lạm dụng bạo lực với tù nhân và bảo vệ quyền lợi thiết yếu của họ, Điều 707 quyđịnh: “Ngục giám vô cớ hành hạ tù nhân đến bị thương thì xử theo luật đánh người bị thương. Nếu xén bớtáo quần, cơm, đồ ăn của tù nhân thì căn cứ vào việc bớt xén đó kết tội ăn trộm; hoặc bởi đánh đập, bớt cơmmà tù nhân chết thì bị xử đồ hay lưu. Ngục quan và giám ngục quan biết sự việc không tố giác thì cũng bịtội trên, nhưng được giảm một bậc”.Hai là, tính nhân đạo đối với người gặp khó khăn đặc biệt-Đối với những người gặp hoàn cảnh khó khăn, không có người để nương tựa thì quan chức địa phươngphải có trách nhiệm giúp đỡ họ, Điều 294 quy định: “Ở những phường hẻm hay trong kinh thành hoặc ởhương thôn, xã có người bệnh tật không ai nuôi nấng, nằm ở dọc đường sá, cầu, điếm, chùa, quán thì chophép quan bản phường xã đó dựng lều cho họ ở, chăm sóc che chở, cấp cơm cháo, thuốc men cứu sống họ,không được bỏ mặc họ rên rỉ, khốn khổ. Không may kẻ ấy chết thì trình quan trên, liệu bề chôn cất, khôngđược để hài cốt phơi bày ra đó. Nếu trái lệnh này thì quan phường xã bị biếm hay bị bãi chức...”.Một số đối tượng cũng cần được giúp đỡ khác là “những người góa vợ, góa chồng cô độc và người tàn phếnặng, nghèo khổ không người thân nương tựa, không khả năng tự kiếm sống thì quan sở tại phải nuôidưỡng họ, nếu bỏ rơi họ thì bị đánh 50 roi biếm một tư. Nếu họ được cấp cơm áo mà thuộc lại ăn bớt thì xửtheo luật người giữ kho ăn trộm của công”.Ba là, quy định nhân đạo, tiến bộ đối với phụ nữ và trẻ em:Đối với phụ nữ, quyền lợi của đối tượng này được đề cập chủ yếu trong hai chương “Hộ hôn” và “Điềnsản” với những quy định thể hiện sự coi trọng cá nhân và vai trò của người phụ nữ cũng như bảo vệ quyềnlợi của họ trong việc hương hỏa, tế lễ, thừa kế và sở hữu tài sản.Người vợ, theo phong tục phải lệ thuộc vào chồng, nhưng trong Bộ luật Hồng Đức địa vị của ngườivợ có những độc lập nhất định như họ có quyền có tài sản riêng, có quyền xin ly hôn trong một số trườnghợp, chẳng hạn, tại Điều 308 quy định: “Chồng xa cách vợ không lui tới suốt 5 tháng thì vợ được phép trìnhquan sở tại, quan xã làm chứng thì chồng đó mất vợ. Nếu đã có con thì gia hạn 1 năm. Những người côngsai đi xa không áp dụng luật này. Nếu đã thôi vợ mà cản trở người khác cưới vợ cũ thì xử biếm”.Trong trường hợp cưỡng ép phụ nữ kết hôn cũng bị tội, theo Điều 320: “Mãn tang chồng nhưngngười vợ thủ tiết, nếu ngoài ông bà, cha mẹ, kẻ nào khác gả ép người phụ nữ đó thì bị biếm ba tư và buộcphải ly dị. Trả người đàn bà về chồng cũ…” hoặc quy định tại Điều 338: “những nhà quyền thế mà ức hiếpđể cưới con gái lương dân thì xử phạt, biếm hay đồ”. Khi xảy ra tình trạng ly hôn, luật xác định tài sản củavợ chồng được hình thành từ 3 nguồn: i) Tài sản của chồng thừa kế từ gia đình nhà chồng; ii) Tài sản củangười vợ thừa kế từ gia đình nhà vợ; iii) Tài sản chung do hai vợ chồng tạo dựng trong quá trình hôn nhântồn tại. Khi gia đình tồn tại, tất cả tài sản được coi là của chung; khi ly hôn, tài sản của ai, người đó đượcnhận riêng và chia đôi tài sản chung của hai người.Điều 403 và Điều 404 Bộ luật Hồng Đức quy định xử rất nặng đối với những trường hợp xâm phạmthân thể, tiết hạnh của người phụ nữ, kẻ nào “hiếp dâm thì xử lưu hay chết. Phải nộp tiền tạ tội hơn một bậcđối với tiền tạ tội gian dâm thường. Nếu gây thương tích cho người đàn bà thì xử nặng hơn một bậc đánhngười bị thương. Nếu làm chết người đàn bà thì điền sản kẻ phạm tội phải giao cho nhà người bịchết” ; “gian dâm với con gái nhỏ 12 tuổi trở xuống, dù nó thuận tình thì vẫn xử như tội hiếp dâm”.Theo Điều 482, nếu “chồng đánh vợ bị thương thì xử như tội đánh người bị thương nhưng nhẹ hơn 3bậc. Nếu đánh chết thì xử như tội đánh chết người nhưng nhẹ hơn 3 bậc, tiền đền mạng bớt 3 phần. Cố ýgiết vợ thì giảm một bậc tội; nếu có tội bị chồng đánh, không may chết thì xử riêng. Đánh vợ bé bị thương,sứt gãy trở lên thì nhẹ tội hơn đánh vợ 2 bậc…”. Trong trường hợp người phụ nữ có việc liên quan đến kiệntụng hoặc bị tội thì họ vẫn được bảo vệ ở mức độ nhất định, Điều 409: “Quan coi ngục, lại ngục, ngục tốtgian dâm với đàn bà, con gái có chuyện thưa kiện thì tội nặng hơn một bậc so với tội gian dâm thôngthường. Nếu có thuận tình thì giảm 3 bậc tội cho các gian phụ ấy. Nếu họ bị hiếp thì không xử tội họ”. Đặcbiệt tại Điều 680: “Đàn bà phạm tội tử hình trở xuống, nếu đang mang thai thì phải đợi sau khi sinh đẻ 100ngày mới đem hành hình. Nếu chưa sinh mà đem hành hình thì ngục quan bị biếm hai tư, ngục lại bị tội đồlàm bản cục đinh.Dù đã sinh nhưng chưa hết hạn 100 ngày mà hành hình thì ngục quan và ngục lại bị xử biếm hay bị phạt.Nếu khi chưa sinh mà thi hành tội đánh roi thì ngục quan bị phạt 20 quan tiền, ngục lại bị đánh 80 trượng.Nếu do đánh roi đưa đến trọng thương hay chết thì xử vào tội “quá tất sát thương” (lỡ tay giết người, làmbị thương người)…”.Một số tội, nếu người phạm tội là phụ nữ thì được giảm nhẹ, như việc xử lý tội ăn trộm, ăn cướp, màtheo đó, Điều 429, 441 quy định: “Ăn trộm có cầm khí giới thì xử tội ăn cướp và có giết người thì xử tộigiết người. Đàn bà được giảm tội”, hoặc trường hợp đầy tớ ăn trộm đồ của chủ, nếu là “tớ gái thì đượcgiảm tội”.Luật cũng quy định một số vấn đề khác liên quan đến phụ nữ, như cấm “lấy thuốc sảy thai làm ngườisảy thai, hay là người xin thuốc sảy thai cũng đều xử đồ. Vì sthai mà chết thì người cho thuốc bị xử theo tộigiết người” (Điều 424). Với một số tội, mức xử phạt đối với phụ nữ còn nhẹ hơn đàn ông, chẳng hạn, Điều450 quy định: “…Kẻ lạ vào vườn người ta thì xử biếm, đàn bà được giảm một bậc”.-Bên cạnh bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ, Bộ luật Hồng Đức còn chú ý đến đối tượng trẻ em, tạiĐiều 313 quy định: “Trẻ nhỏ mồ côi và phụ nữ tự bán mình không người bảo lãnh thì kẻ mua và kẻ viết vănkhế, kẻ làm chứng đều bị xử roi, trượng theo luật (nữ bị đánh 50 roi, nam bị đánh 80 trượng) đòi lại tiền trảcho kẻ mua, hủy bỏ văn khế. Kẻ cô độc, khốn cùng từ 15 tuổi trở lên tự nguyện bán mình thì chophép”. Theo Điều 605: “Nếu ai bắt được trẻ con đi lạc thì phải báo quan làm bằng chứng thật, có ai đếnnhận thì được lấy tiền nuôi dưỡng (mỗi tháng 5 tiền), trái luật không cho người ta nhận con thì xử tội nhẹhơn tội quyến rũ một bậc” (điều 604). Trường hợp kẻ nào “làm chuyện ngược ngạo (lượm trẻ lạc về, khôngnuôi còn hành hạ) để đến nỗi con người ta chết thì đánh 80 trượng, đền 5 quan tiền nhân mạng cho cha mẹđứa trẻ chết”.Bốn là, tính nhân đạo đối với một số đối tượng khác:Những đối tượng này gồm có người thiểu số, nô tỳ, người làm thuê, ở đợ, người mất khả năng nhậnthức…Điều 435 quy định hình thức xử lý với hành vi “ trấn lột quần áo, đồ đạc của trẻ em, của kẻ khùngđiên, của người say rượu thì bị xử tội đồ và phải đền gấp đôi”.Điều 363 có quy định: “Mua nô tỳ mà không đem văn tự trình quan xét hỏi mà lại tự ý xâm chữ vàomặt nô tỳ thì phạt 10 quan tiền”, trường hợp xâm chữ vào kẻ ở đợ bắt làm nô tỳ cho mình thì bị xử lưu, phạt50 quan tiền, ngoài ra còn phải trả tiền xóa chữ theo luật định (Điều 365). Nếu “Những nô tỳ được cho vềlàm lương dân, cấp giấy rồi mà còn bắt chúng ở lại làm tôi tớ với mình thì bị phạt 50 roi, biếm một tư.Người nô tỳ vẫn được trở về theo giấy cấp” (Điều 291).Điều 490, quy định trong trường hợp nô tỳ có tội, chủ không thưa quan mà đánh chết thì xử biếm 3 tư.Các nô tỳ ấy không có tội mà đánh chết thì xử đồ. Giết nô tỳ coi từ đường, mồ mả thì xử nặng hơn tội trênmột bậc. Nô tỳ sai phạm, dạy bảo đánh bằng roi vô tình làm nó chết, hay ngộ sát thì xử tùy nặng nhẹ…Đốivới người dân tộc thiểu số, Bộ luật Hồng Đức cũng có một số điều đề cập đến, đặc biệt là nhằm bảo vệ họtrước sự sách nhiễu của quan lại, như việc cấm quan quân giữ cửa ải khi thấy “khách buôn bán và dân ManLiêu qua cửa ải mà đòi tiền của họ thì bị biếm hai tư.Đền trả lại cho gấp hai số tiền” (Điều 71) hoặc theo Điều 163 quy định khi chiêu dụ dân Man Liêu mà tựtiện phá nhà cửa lấy súc vật tài sản của dân thì bị tội biếm hay bị đồ, lại phải bồi thường gấp đôi số tiền trảcho dân. Nếu giả mạo chỉ lệnh của quan trên để “đòi trưng thu sản vật của dân Man Liêu thì xử lưu châungoài và đền gấp hai tang vật” (Điều 531), còn nếu “thu thuế của dân Man Liêu mà không đến trình ngườicai quản thì xử biếm một tư” (Điều 595).Việc xử lý đối với người dân tộc phạm tội cũng có những cân nhắc nhẹ nhàng hơn, áp dụng cả tục lệcủa họ, tại Điều 40 có quy định: “Những người miền thượng du (miền núi) cùng phạm tội với nhau thì theophong tục xứ ấy mà định tội. Những người thượng du phạm tội với người trung châu (vùng đồng bằng) thìtheo luật mà định tội”. Trong trường hợp “người Man Liêu cướp, giết lẫn nhau thì xử nhẹ hơn tội cướp, giếtngười thường một bậc. Nếu hoà giải được với nhau thì cũng cho” (Điều 451); trường hợp “quan quản giámcác dân Man Liêu tự ý trông coi các vụ kiện trong hạt riêng, sai người đem }rap đi bắt người hoặc ức hiếpdân thì xử phạt 40 trượng biếm 2 tư” (Điều 164); còn khi bắt tội phạm là người thiểu số mà không trìnhquan quản giám người Man Liêu thì bị xử biếm một tư (Điều 703).Các điểm tiến bộ-Điểm tiến bộ trong luật Hồng Đức là nó có một tiến khá căn bản trong việc cải thiện địa vị của người phụ nữtrong xã hội phong kiến. Vai trò của người phụ nữ đã được đề cao hơn rất nhiều so với các bộ luật đươngthời trong khu vực. Nó cho thấy người vợ có quyền quản lý tài sản của gia đình (khi chồng chết) và họ cóquyền thừa kế như nam giới.-Điểm thứ hai, là hình phạt cho phạm nhân nữ bao giờ cũng thấp hơn so với phạm nhân nam. Ví dụ: Điều 1quy định trượng hình chỉ đàn ông phải chịu: "Từ 60 cho đến 100 trượng, chia làm 5 bậc: 60 trượng, 70trượng, 80 trượng, 90 trượng, 100 trượng, tuỳ theo tội mà thêm bớt. Xử tội này có thể cùng với tội lưu, tộiđồ, biếm chức, hoặc xử riêng chỉ đàn ông phải chịu." Điều 680: "Đàn bà phải tội tử hình trở xuống nếu đangcó thai, thì phải để sinh đẻ sau 100 ngày mới đem hành hình. Nếu chưa sinh mà đem hành hình thì ngụcquan bị xử biếm hai tư; ngục quản bị đồ làm bản cục đinh. Dù đã sinh rồi, nhưng chưa đủ hạn một trămngày mà đem hành hình, thì ngục quan và ngục lại bị tội nhẹ hơn tội trên hai bậc. Nếu đã đủ 100 ngày màkhông đem hành hình, thì ngục quan hay ngục lại bị tội biếm hay tội phạt"..-Điểm thứ ba, nó thể hiện chính sách trọng nông của triều Lê. Bộ luật trừng phạt rất nặng các tội như pháhoại (điều 596), chặt phá và của người khác (điều 601), tự tiện giết (điều 580) v.v Những điều luật trongQuốc Triều Hình Luật đã xác định trách nhiệm của nhà nước thông qua trách nhiệm của hệ thống quan lạinhằm đảm bảo cuộc sống tối thiểu của người nghèo khổ trong xã hội (Điều 294; Điều 295).-Điểm thứ tư, luật Hồng Đức có nhiều quy định thể hiện tính chất nhân đạo, thể hiện sự quan tâm và bảo vệdân thường. Ví dụ: Điều 17 Quốc Triều Hình Luật quy định: "Khi phạm tội chưa già cả tàn tật, đến khi giàcả tàn tật mới bị phát giác thì xử theo luật già cả tàn tật.Khi ở nơi bị đồ thì già cả tàn tật cũng thế. Khi cònbé nhỏ phạm tội đến khi lớn mới phát giác thì xử tội theo luật lúc còn nhỏ". Quốc Triều Hình Luật còn thểhiện chính sách khoan hồng đối với người phạm tội tuy chưa bị phát giác và tự thú trước (trừ phạm tội thậpác hoặc giết người). Điều 18 và điều 19: "Phàm ăn trộm tài vặt của người sau lại tự thú với người mất củathì cũng coi như là thú ở cửa quan". Điều 21, 22, 23, 24 của Quốc Triều Hình Luật quy định cho chuộc tộibằng tiền (trừ hình phạt đánh roi vì cho rằng đánh roi có tính chất răn bảo dạy dỗ nên không phải chochuộc).-Điểm thứ năm, luật Hồng Đức vừa tiếp thu có chọn lọc tư tưởng của Nho giáo vừa phát huy những phongtục tập quán tốt đẹp của dân tộc. Ví dụ: Điều 40: "Những người miền thượng du (miền núi, miền đồng bàodân tộc ít người cư trú) cùng phạm tội với nhau thì theo phong tục xứ ấy mà định tội. Những người thượngdu phạm tội với người trung châu (miền trung du và miền đồng bằng) thì theo luật mà định tội.". Có thể nóiđây là một trong những điều luật thể hiện rõ nhất tính sáng tạo của nhà làm luật. Điểm thú vị của quy địnhnày ở chỗ luật pháp dù có hoàn bị đến đâu cũng không thể phủ nhận hoặc thay thế hoàn toàn vai trò củaphong tục tập quán vốn dĩ đã tồn tại lâu dài trước cả khi có luật.