Ở đồng bằng sông hương được miêu tả như thế nào

Bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường hấp dẫn người đọc bởi khả năng liên tưởng mạnh mẽ, tư duy khoáng đạt, ngôn ngữ trong sáng, đẹp đẽ. Một trong những tác phẩm kí đặc sắc là Ai đã đặt tên cho dòng sông? được ông viết năm 1987. Bài chỉ được trích một đoạn [gồm phần thứ nhất – trữ đoạn mở đầu] trong ba phần của bài và lời kết của toàn bộ bài kí.

Phần thứ nhất nói về cảnh quan thiên nhiên của sông Hương. Hai phần còn lại nói về sự gắn bó của sông Hương với lịch sử và văn hóa. Tuy nhiên, ngay trong phần thứ nhất, người đọc không những thấy được vẻ đẹp thiên nhiên gắn với đời sống và tâm hồn con người mà còn cảm nhận được sự gắn bó của sông Hương với lịch sử và văn hóa của xứ Huế, của đất nước. Mặt khác, những nét tiêu biểu cho đặc trưng thể loại bút kí và văn phong Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã thể hiện trong đoạn văn đặc sắc này.

Mở đầu là dòng sông Hương ở thượng lưu, được miêu tả với một sức sống mãnh liệt, hoang dại nhưng cũng có lúc dịu dàng và say đắm. Cảnh dòng sông ở đây được tác giả khắc họa với những hình ảnh đầy ấn tượng [mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc], những sắc màu rực rỡ [màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng], những từ ngữ gợi cảm [bản trường ca của rừng già, dịu dàng và say đắm], những phép tu từ so sánh kết hợp với nhân hóa [sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng].

Khi về đến đồng bằng, sông Hương có sự thay đổi về tính cách. Sông như đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái để mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành một người mẹ phù sa của một rừng văn hoa xứ sở. Vẻ đẹp dịu dàng, trí tuệ này của dòng sông thực ra đã có cội nguồn ở phần tâm hồn sâu thẳm của nó trong cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua.

Hình tượng người con gái đẹp được người tình mong đợi đến đánh thức đã hứa hẹn nhiều vẻ đẹp mới của sông Hương. Những kiến thức về địa lí đã giúp cho tác giả miêu tả được tỉ mỉ sông Hương với những khúc quanh và lưu vực của nó. Năng lực quan sát tinh tế và phong phú về ngôn ngữ hình tượng đã giúp cho tác giả viết được những câu văn đầy màu sắc và ấn tượng như sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn [...], sắc nước trở nên xanh thẳm, va từ đó nó trôi đi giữa hai  đồi sừng sững như thành quách [...], dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc [...], “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Ta nhận thấy, kiến thức về văn hóa, văn học đã in dấu vào những câu văn viết về những lăng tẩm, về vẻ đẹp trầm mặc của sông Hương đoạn ở ngoại vi thành phố Huế vào câu ca dao:

Bốn bế núi phủ mây phong
Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên.

Sông Hương khi chảy vào thành phố Huế trở nên vui tươi hẳn lên và đặc biệt chậm rãi, êm dịu, mềm mại.

Ở đoạn này, tác giả đã sử dụng những hình ảnh đầy ấn tượng: chiếc cầu trắng in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ... Những phép tu từ so sánh kết hợp với nhân hóa, ẩn dụ độc đáo dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu, khúc quanh [trước khi ra biển] như một nỗi vương vấn, có một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Những chi tiết về phong tục, lễ hội trở thành những hình tượng nghệ thuật miêu tả dòng sông với trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh [...] qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng, cả thể liên hệ với câu thơ của Thu Bồn viết về sông Hương:

Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.

Những kiến thức về âm nhạc cũng được tác giả huy động với những liên tưởng kì thú: điệu nhảy lặng lờ của nó [sông Hương] khi ngang qua thành phố [...] Đấy là điệu Slow tình cảm dành riêng cho Huế. Tiếp đó, kí ức về những dòng sông mà tác giả đã từng đến đã được vận dụng để so sánh, để làm rõ nét đặc trưng dòng chảy của sông Hương: sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, và đặc biệt là dòng sông Nê-va với những phiến băng trôi nhanh như chiếc thuyền của những chú chim hải âu...

Tiếp theo, tác giả nêu mối quan hệ giữa sông Hương với lịch sử, cuộc đời và thơ ca. Trong mối quan hệ nghiêm trang này, sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu những thế kỉ vinh quang từ thuở còn là một dòng sông biên thùy xa xôi của dất nước các vua Hùng, thuở nó mang tên là Linh Giang [dòng sông thiêng] trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, là dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ vào thế kỉ mười tám; nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa nó chứng kiến thời đại mới với cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và bao chiến công rung chuyển qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc sau này...

Không chỉ là bản hùng ca tấu lên bao chiến công trong lịch sử, sông Hương còn là một nhân chứng nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm của cuộc đời. Tuy nhiên, điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường của dòng sông là ở chỗ, khi nghe lời gọi, nó biết cách tự biến mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước. Có lẽ chính điều đó đã làm cho sông Hương không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ.

Dưới ngòi bút của tác giả, sông Hương không tách rời đời sống văn hóa của đất cố đô. Nó chẳng những tạo nên vẻ đẹp của cảnh quan thiên nhiên nơi sông Hương núi Ngự, mà còn góp phần tạo nên vẻ đẹp tâm hồn của người Huế, đồng thời là nguồn cảm hứng của biết bao nghệ sĩ từng tạo nên bản nhạc Tứ đại cảnh, Truyện Kiều của Nguyễn Du, nhiều áng thơ của Bà Huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát, Tản Đà...

Tóm lại, đoạn bút kí Ai đã dặt tên cho dòng sông? là đoạn văn xuôi đầy chất thơ đã ca ngợi cảnh vật sông Hương, con sông gắn bó với lịch sử, văn hóa của Huế và cũng là của dân tộc. Xuyên suốt đoạn văn và thấm đượm vào từng chi tiết, người đọc thấy được lòng yêu mến đến say mê dòng sông đất nước, được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu chất trí tuệ, chất văn hóa, với ngôn ngữ trong sáng, chọn lọc và tinh tế: Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Dàn ý

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường

- Giới thiệu tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng dông?

- Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận

2. Thân bài

- Hành trình xuôi dòng của dòng sông được xem là hành trình tìm lại tình nhân của một người con gái trong câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích.

- Trong hành trình chảy xuôi về đồng bằng, nhà văn đã nhận ra sự thay đổi về tính cách của sông Hương. Bởi lẽ trước khi trở thành người tình thủy chung của cố đô, dòng sông đả trải qua một hành trình đầy gian truân và nhiều thử thách.

- Giữa “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”, sông Hương là cô gái đẹp ngủ mơ màng, nhưng ngay sau khi ra khỏi vùng rừng núi, tựa như nàng tiên được đánh thức từ giấc ngủ đại ngàn, sông Hương bỗng bừng lên sức trẻ của phố phường và niềm khát khao cùa tuổi thanh xuân.

 - Về thành phố, dường như là lúc sông Hương tìm lại được chính mình. Sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam - đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố ”. Nằm ngay giữa lòng thành phố, sông Hương có vị trí như sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét...

=> Hai bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa trong đoạn văn đã làm nổi bật một sông Hương đẹp bởi sự phối cảnh kì thú giữa dòng sông hương với thiên nhiên xứ Huế.

=> Nhà văn sử dụng nhiều điểm nhìn của các loại hình nghệ thuật khác nhau : miêu tả sông Hương dưới con mắt của hội hoa, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô. Qua cảm nhận của âm nhạc, sông Hương “đẹp như điệu slow”, chậm rãi, sâu lắng, trữ tình.

- Đoạn sông Hương rời thành phố là một đoạn tuyệt bút của nhà văn. Xuống đồng bằng, nhà văn nhận ra sông Hương có sự thay đổi về tính cách. Sức mạnh bản năng ở người con gái nơi thượng nguồn đã được chế ngự để mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ trở thành một người mẹ phù sa chốn đồng bằng.

3. Kết bài

- Khái quát vấn đề

Bài mẫu

        Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều hình vực. Ông chuyên về thể loại bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức sâu rộng về triết học, văn hoá, lịch sử, địa lí, lối hành văn hướng nội súc tích, mê đắm và tài hoa. Ai đã đặt tên cho dòng sông? là bài bút kí xuất sắc, viết tại Huế 1981, in trong tập sách cùng tên của ông.

        Tác phẩm đã miêu tả cảnh quan thiên nhiên sông Hương, sự gắn bó của con sông với lịch sử và văn hoá của xứ Huế, của đất nước. Qua đó nhà văn bộc lộ niềm tự hào tha thiết, sâu lắng dành cho dòng sông Hương, cho xứ Huế thân yêu và cũng là cho đất nước.

        Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ nét lịch lãm và tài hoa trong lối hành văn của tác giả. Độc giả khó cưỡng một sức hấp dẫn toát lên từ hàng loạt động từ diễn tả cái dòng chảy sống động qua những địa danh khác nhau của xứ Huế. Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, sông Hương là “cô gái đẹp ngủ mơ màng”; nhưng ngay sau khi ra khỏi vùng núi, thì cũng như nàng tiên được đánh thức, sông Hương bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của tuổi thanh xuân trong sự “chuyển dòng liên tục”, “rồi vòng những khúc quanh đột ngột”, vẽ một hình cung thật tròn, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, rồi “vượt qua”, “đi giữa âm vang”, “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”…

        Vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng, sông Hương có lúc “mềm như tấm lụa” khi qua Vọng Cảnh. Tam Thai, Lựu Bảo; có khi ánh lên “những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” lúc qua những dãy đồi núi phía tây nam thành phố và mang vẻ đẹp trầm mặc khi qua bao lăng tẩm, đền đài mang niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong những rừng thông u tịch cho đến lúc bừng sáng, tươi tắn và trẻ trung khi gặp “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”…

        Hai bút pháp kể và tả được kết hợp nhuần nhuyễn và tài hoa trong đoạn văn đã làm nổi bật một sông Hương đẹp bởi phối cảnh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế phong phú mà hài hoà.

        Sông Hương khi chảy trong Huế, như đã tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu, sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa những bến bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”, dòng sông “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc”, rồi “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến” khiến dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói là của tình yêu”. Nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình, sông Hương cũng giống sông Xen của Pa-ri, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét,… nhưng trong cách biểu đạt tài hoa của tác giả, sông Hương được cảm nhận với nhiều góc độ: nhìn bằng con mắt của hội hoạ, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương “đẹp như điệu Slow” chậm rãi, sâu lắng, trữ tình và với cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình, sông Hương là người tình dịu dàng và chung thuỷ. Điều này được diễn tả trong một phát hiện thú vị của tác giả: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bảo Vinh xưa cổ”. Cũng theo tác giả khúc quanh thật bất ngờ đó, tựa như một “nỗi vương vấn”, và dường như còn có cả “một chút lẳng lơ kín đáo” của tình yêu…

        Có thể nói, nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn văn là tình yêu say đắm với dòng sông được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu trí tuệ, tổng hợp từ một vốn hiểu biết sâu rộng về văn hoá, lịch sử, địa lí và văn chương cùng một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.

        Trích đoạn bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông đã gợi ra vẻ đẹp của Huế, của tâm hốn người Huế qua sự quan sát sắc sảo của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông Hương. Ông xứng đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cuốn từ điển sống về Huế, một cây bút giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Bài kí góp phần bồi dưỡng tình yêu, niềm tự hào đối với dòng sông và cũng là với quê hương đất nước.

Nguồn: Sưu tầm

Loigiaihay.com

Video liên quan

Chủ Đề