Nghệ sĩ lâm thanh nhà hát chèo quân đội

QĐND - Mấy lần gọi điện thoại đến nhà riêng củavợ chồng Thượng úy QNCN Lâm Thanh, diễn viên Nhà hát Chèo quân đội, tôiđều nghe giọng bé gái lảnh lót bên đầu dây:Mẹ con đi công tác cuối tuần mới về cô ạ. Nhà chỉ có con, anh Tùng Dương và bà thôi.

Chị em phụ nữNhà hát Chèo quân độitrao đổi với nhau sau giờ luyện tập.

Rồi tôi cũnghẹn gặp được Lâm Thanh sau buổi tập, lại được nghe thông tin nóng hổi: Đoàn sắp sửa tham gia Hội diễn Nghệ thuật chuyên nghiệp toàn quân và kết hợp lưu diễn 45 ngày tại TP Hồ Chí Minh. “Phụ nữ làm nghệ thuật là phải chấp nhận nhiều thứ thiệt thòi lắm. Phía sau ánh đèn sân khấu là sự khổ luyện và sự hy sinh mà người theo nghề phải chấp nhận. Nhất là vợ chồng cùng làm nghệ thuật thì việc giải quyết hài hòa giữa thực hiện nhiệm vụ với chu toàn gia đình là điều không dễ” - Chị Thanh chia sẻ.

Vợ chồng chị Lâm Thanh cùng công tác tại Nhà hát Chèo quân đội, thường xuyên phải lưu diễn xa nhà, dài ngày. Việc chăm sóc các con đều phải nhờ ông bà nội ngoại. Cũng may là trường học của các cháu sử dụng sổ liên lạc điện tử để thông báo tình hình học tập và giao bài tập về nhà, nên vợ chồng chị có điều kiện hơn trongquản lý việc học tập của các con. Mỗi khi cả hai vợ chồng cùng đi diễn dàingày thìcó phương án thống nhất: Hằng ngày gọi điện về kiểm tra bài tập cô giao trên lớp conđã làm chưa? Còn bài nào chưa giải được thì mẹ hoặc bố hướng dẫn con qua điện thoại. Lo nhất là những lúc các cháu bị ốm, vừa diễn mà trong lòng như có lửa đốt. Thế nhưng hoàn cảnh của Lâm Thanh vẫn còn khá may mắn khi có hai bên nội ngoại giúp đỡ. Cónhững nữ diễn viênkhông biết xoay xở ra sao khi lưu diễn xa nhà.

Thiếu tá QNCN Hiền Lương, diễn viên Đoàn diễn 2 là một ví dụ. Có thời điểm bố mẹ đẻ chị Hiền Lương bị bệnh nặng phải vào bệnhviện điều trị, trong khi chồng đi công tác vắng nhà, hai con còn nhỏ. Con trai gọi điện cho mẹ, giọng rắn rỏi: “Mẹ ơi, bố không về, anh em chúng con tự đi học, tự nấu cơm ăn. Mẹ không phải lo lắng cho chúng con, mẹạ!”. Chị vừa thương con, vừa cảm thấy tự hào vì con trai mới 10 tuổi đãkhá chững chạc.

Với những nữnghệ sĩ, vừa phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ chính trị, tích cực rèn luyện đểtỏa sáng trong các vai diễn trên sân khấu, vừa làm tròn thiên chức người vợ, người mẹ, người “giữ lửa” tổ ấm gia đình... là điều không dễ. Và như lời tâm sự trước lúc chia tay với Lâm Thanh: “Có lẽ chính điều đó đã rèn cho con của chúng tôi bản lĩnh, tính tự lập từ rất sớm để bố mẹ thêm yên tâm trong mỗi chuyến công tác xa nhà”.


Bài và ảnh: VÂN ANH

Làm cùng nghề, cùng nhà hát với nhau đã giúp cho cặp đôi Quốc Trượng - Lâm Thanh dễ dàng tìm được tiếng nói chung trong công việc. Sự chênh lệch về tuổi tác những tưởng khiến họ khó chia sẻ, nhưng ngược lại.

 Không diễn hài nhiều vì thấy ai cũng làm diễn viên được

Là nghệ sĩ biểu diễn, nhưng từ năm 2001, anh đã đảm nhiệm vai trò Đội trưởng Đội diễn viên của Nhà hát chèo Quân đội. Tính ra, thời gian làm quản lý của anh nhiều hơn làm nghề. Có khi nào vì thế mà các vai diễn của anh không có nhiều?

Tôi vẫn làm công việc chuyên môn đấy chứ, chỉ là không tập trung diễn xuất như trước thôi. Dàn dựng các chương trình cho nhà hát cũng là chuyên môn mà. Như mấy hôm nay, Nhà hát đang bận rộn với lễ kỷ niệm 60 năm ngày thành lập, tôi vừa làm đạo diễn cho chương trình, vừa dàn dựng một hạt coảnh chèo.

Theo anh, một nghệ sĩ Quốc Trượng khác với một nhà quản lý Quốc Trượng ở điểm nào?

Với nghệ sĩ, không gì bằng được đứng trên sân khấu. Bản thân tôi cũng thế thôi, nhiều khi cũng tiếc nhớ khoảng thời gian làm diễn viên lắm. Nhưng đây là nhiệm vụ cấp trên giao thì phải thực hiện và phấn đấu.

Dù không đứng trên sân khấu nữa nhưng tôi vẫn sống trong bầu không khí của chèo hàng ngày, chỉ là ở vai trò khác mà thôi.

Sự đặc thù trong quản lý đôi khi khiến cho chất nghệ sĩ phải được kìm nén, lắng xuống chứ không thể vui vẻ thoải mái, ào ào như trước được.

Nghệ sĩ chỉ nên “say” ở trên sân khấu thôi để biết phân biệt, lúc nào làm nghề, lúc nào là đời thực. Nhiều người làm nghề thế nào thì ra đời cũng “diễn” lại như thế thì sẽ không tốt.

Ảnh: VietNamNet

Hơn 20 năm trong nghề, nổi tiếng với vai hề chèo nhưng nếu mổ xẻ ra thì yếu tố để khán giả biết đến anh nhiều nhất lại chính là những vai hài trên truyền hình. Anh có nghĩ rằng nếu không diễn hài thì tên tuổi của anh cũng chỉ được một bộ phận những người yêu sân khấu biết đến?

Khán giả biết đến tôi nhiều ở vai trò nào không khiến tôi quan tâm lắm. Quan trọng là họ biết đến tôi ở chính vai diễn đó, mang dấu ấn riêng của Quốc Trượng.

Cứ nhắc đến chèo Quân đội là người ta biết đến Quốc Trượng, còn ở lĩnh vực sân khấu truyền hình thì tôi không coi đó là tâm điểm để làm nên thương hiệu cá nhân.

Chính vì vậy khi tham gia diễn hài, tôi không bao giờ diễn theo kiểu hài kịch và diễn theo chất “hề”, tức là sự thâm thúy trong tiếng cười chứ không phải là sự dễ dãi.

Đó có phải lý do để một thời gian dài không thấy anh diễn hài trên truyền hình như rất nhiều các diễn viên khác?

Tham gia diễn hài một thời gian, tôi nhận thấy dường như ai cũng có thể diễn hài được. Có những người không học hành gì cả cũng làm được, thành ra cái cười không còn “đắt” nữa. Cái đó khiến tôi không còn tìm được hứng thú với lĩnh vực này từ lâu rồi.

Tôi thích được làm nghề, được làm hề chèo chính thống chứ không phải làm theo kiểu “mỳ ăn liền”, cười xong rồi thôi, không mang tính giáo dục và nghệ thuật nhiều lắm.

Theo anh, vì sao cái hài mất đi sự thâm thúy vốn có, do khán giả dễ dãi hay vì nghệ sĩ bất tài?

Nó có cả hai lý do đó. Thưởng thức của khán giả đơn thuần quá, chỉ cần nói một câu là có thể mang lại được tiếng cười nên ai cũng có thể diễn hài được. Nó khác hẳn với hề, không học hành bài bản thì không diễn được đâu. Hề phải có câu chuyện, nó lắng đọng nhưng xem xong về nhà vẫn cười gần chết. Ngoài ra còn một căn nguyên nữa là do cuộc sống, họ phải bon chen nên bất chấp sự dễ dãi để làm nghề, dẫn đến một thời gian dài sân khấu hài bị tụt dốc.

Con không nhận ra bố mẹ vì vắng nhà liên tục

Được biết, vợ chồng anh làm cùng nhà hát, chồng là “sếp to”, vợ là “sếp nhỏ” [Đội trưởng Đội diễn viên]. Như thế thì thời gian cho gia đình chắc chắn sẽ bị eo hẹp?

Hai vợ chồng cùng làm nghệ thuật thì có bất lợi là đi nhiều, nhưng được cái thuận lợi là rất hiểu đặc thù trong công việc nên sự thông cảm cho nhau cũng dễ hơn. Có lần hai vợ chồng đi diễn kéo dài tới 2-3 tháng, lúc về nhà, cô con gái còn không nhận ra được bố mẹ, cứ khóc váng lên. Ngày nghỉ cuối tuần chủ yếu là 3 mẹ con đi chơi với nhau chứ ít khi có bố đi cùng. Được cái vợ và các con cũng quen rồi nên chưa một lần trách cứ gì tôi cả.

Anh nổi tiếng với những vai hài, hề chèo. Trong đời thường hay ở nhà, anh có mang sự hài hước đó vào cuộc sống của mình không?

Ở nhà thì tôi không phải là người hài hước đâu. Thậm chí còn có phần nghiêm khắc nữa.

Vợ anh kém anh tới 13 tuổi, điều đó có dẫn đến sự chênh lệch trong quan điểm sống không?

Vợ tôi tâm sự, cô ấy luôn tâm niệm sẽ lấy người hơn ít nhất là 10 tuổi. Nhiều người bảo vợ tôi trẻ người mà không hề non dạ, vì rõ ràng lấy người lớn tuổi hơn thì suy nghĩ cũng chín chắn hơn.

Theo logic, với người ít tuổi bao giờ người ta cũng nảy sinh tâm lý nhường nhịn và che chở chứ hiếm khi ăn thua lắm. Còn trong quá trình chung sống, vợ chồng nhà nào cũng không tránh khỏi những lúc bất đồng quan điểm chứ không phải chỉ chênh lệch tuổi tác mới có. Những lúc đó, vì mình nhiều tuổi hơn nên nói vợ cũng dễ “phục” hơn thì phải.

Theo Theo Gia đình Xã hội

1. Nhà hát Chèo quân đội trực thuộc Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam – tiền thân là Đoàn chèo Tổng cục Hậu cần – là một trong những cái nôi của

                           

nghệ thuật chèo toàn quốc. Đây là nơi ươm mầm tài năng, là bệ phóng cho nhiều thế hệ nghệ sĩ chèo quân đội như Nguyễn Thành, Xuân Theo, Ngọc Viễn, Nguyễn Thế Phiệt… Và trong số những tên tuổi gạo cội của Nhà hát Chèo quân đội không thể không nhắc đến Tào Mạt. Tào Mạt tên thật là Nguyễn Duy Thục, có sách, tài liệu ghi là Nguyễn Đăng Thục. Ở đây, chúng tôi nghiêng về cái tên đầu. Nhà nghiên cứu Trần Đình Ngôn – người rất gần gũi với Tào Mạt cho biết: “Trước khi qua đời mấy tháng, ông lại nói với một số anh em thân thiết rằng ông mang họ Nguyễn Duy chứ không phải Nguyễn Đăng và rất muốn trở về với cái tên cha mẹ đặt cho là Nguyễn Duy Thục”[1]. Mặt khác, ở bìa 4 cuốn Những lời tâm huyết, cuốn sách tập hợp những bài phát biểu của Tào Mạt do Cục Tuyên huấn – Tổng cục Chính trị phối hợp cùng Nhà xuất bản Sân khấu ấn hành năm 1992, cũng có dòng ghi chú: “Tào Mạt: Tên thật là Nguyễn Duy Thục [Nhiều cuốn sách, bài viết đã nhầm là Nguyễn Đăng Thục – nay cải chính theo Tào Mạt]”[2]. Sở dĩ ông chọn nghệ danh Tào Mạt là do quá mê nhân vật Tào Mạt thời Xuân Thu của Trung Quốc. Tào Mạt sinh ngày 23 tháng 11 năm 1930, trong một gia đình nghèo, tham gia cách mạng sớm, năm 12 tuổi. Năm 16 tuổi, ông được kết nạp vào Đảng. Cho đến lúc giã từ cuộc đời [ông mất năm 1993 vì bệnh ung thư], Tào Mạt đã có hơn nửa thế kỉ cống hiến không ngừng nghỉ cho cách mạng, cho quân đội nói chung và nghệ thuật nói riêng.

Nói đến Tào Mạt là nói đến một tấm gương ham học, tự học. Nhà nghèo phải theo cha đi trông nhà thuê cho những gia đình giàu có, Tào Mạt tự học Hán Nôm qua những bức đại tự, hoành phi, câu đối trong ngôi nhà mình và cha trông thuê, rồi học qua Tam tự kinh, học với những bậc cha chú am hiểu Hán Nôm. Tuy tự học, nhưng trình độ Hán Nôm của Tào Mạt thuộc diện “nhất đẳng cao thủ”. Ngoài Hán Nôm, Tào Mạt còn tự học cách viết kịch, viết chèo. Không có điều kiện đến trường theo học các lớp đào tạo chính quy, Tào Mạt tranh thủ đi học các lớp đào tạo sân khấu ngắn ngày do quân đội tổ chức, tìm đến những bậc đại thụ của nền sân khấu nước nhà như nhà thơ Thế Lữ, NSND Song Kim, NSND Nguyễn Đình Nghi xin “chỉ giáo” về nghề. Rồi ông bôn ba, lặn lội trong hai cuộc chiến tranh để tìm những chất liệu sáng tác mới. Có thể nói những thành công trên con đường nghệ thuật của Tào Mạt đều ghi đậm dấu ấn của quá trình nỗ lực tự học, tự vượt lên hoàn cảnh.

Nói đến Tào Mạt là nói đến người nghệ sĩ chân chính, luôn tâm huyết, đau đáu với nghệ thuật và sứ mệnh của người nghệ sĩ. Trong suốt cuộc đời hoạt động nghệ thuật, ông luôn tự răn mình bốn điều: “Không vì danh lợi mà uốn cong ngòi bút – Không vì yêu gái mà uốn cong ngòi bút – Không vì cường quyền mà uốn cong ngòi bút – Không vì đói thiếu mà uốn cong ngòi bút”[3]. Trong dịp hiếm hoi được gặp trực tiếp Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Tào Mạt đã thẳng thắn trình bày với người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam những điều gan ruột về mối quan hệ giữa Đảng và văn học nghệ thuật, giữa vai trò lãnh đạo của Đảng đối với văn học nghệ thuật và văn nghệ sĩ, về những biện pháp cụ thể để động viên, khuyến khích giới văn nghệ sĩ có những sáng tác hay, chất lượng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Ông mạnh dạn đề xuất với Tổng Bí thư việc Đảng lãnh đạo văn nghệ sĩ cần phải theo “cho đúng quy luật đặc thù của văn nghệ là tự do sáng tạo, mở rộng cho sáng kiến cá nhân, đạt đến sự độc đáo…”[4]. Ngoài bản tính cương trực, Tào Mạt còn là người nghệ sĩ hết mức chân tình, chu đáo với gia đình, bạn bè, đồng nghiệp. Căn nhà số 91 tại “phố nhà binh” mà quân đội phân cho ông luôn rộn rã tiếng nói cười, ngâm vịnh giữa ông và các bạn văn chương. Là nghệ sĩ đàn anh, ông luôn sẵn lòng giúp đỡ những người mới bước chân vào nghề. Ông vui vẻ gác lại công việc cá nhân, dành cả tuần để sửa giúp kịch bản chèo của một tác giả trẻ mà mình thấy lấp ló tài năng trong đó.

2. Tào Mạt là người nghệ sĩ tài hoa, đa tài. Trước khi bén duyên với chèo, Tào Mạt viết kịch. Ông là tác giả của những vở kịch Cái ba lô [1958], Người chiến sĩ nhân dân [1959], Trong phòng trực chiến [1965], Đỉnh cao phía trước [1967]… Những vở kịch này được nhiều đoàn kịch dàn dựng, phục vụ đời sống tinh thần của bộ đội trong những năm kháng chiến. Trong đó, vở Đỉnh cao phía trước được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao, coi đây là một bước phát triển mới của Tào Mạt trong nghệ thuật biên kịch. Tài năng của Tào Mạt chỉ thật sự phát tiết và tỏa sáng ở chèo. Bộ môn nghệ thuật sân khấu cổ truyền của dân tộc là nơi định danh và lưu danh Tào Mạt trong lịch sử nghệ thuật nước nhà. Sau những bước đi ban đầu với các vở Ánh sao nơi đầu núi, Đường về trận địa [viết cùng Hoài Giao], Anh lái xe và cô chống lầy, Dọc đường chiến hào, Sông Trà Khúc, Nguyễn Viết Xuân, Khúc hát dưới chân núi Nguyệt Hằng… Tào Mạt đã định hình nên phong cách soạn chèo của bản thân và đưa nghệ thuật chèo lên một tầm cao mới qua bộ ba tác phẩm Bài ca giữ nước gồm: Lý Thánh Tông chọn người tài, Ỷ Lan coi việc nước, Lý Nhân Tông học làm vua. Nghệ thuật chèo của ông “là sự kết hợp giữa phương pháp hiện thực và yếu tố dân gian. Trên nền chung của chủ nghĩa hiện thực, kịch bản và vở diễn đã có lúc bay lên bằng bút pháp tả thần. Đó là khi tâm hồn và trí tuệ, nhân cách và tài năng người nghệ sĩ thăng hoa để rồi kết tụ lại thành tinh hoa độc đáo”[5]. Nhà nghiên cứu Tất Thắng cho rằng: “Thành công của Tào Mạt là thành công của sự vận dụng tinh hoa chèo cổ một cách có học. Một trong những tinh hoa ấy là cung cách diễn tả của chèo. Với chèo, ngay cả những tình tiết bi thương nhất cũng có thể diễn tả bằng ngôn ngữ hài hước. Với mảnh trò chôn sống Hề Già vở Lý Nhân Tông học làm vua, ngôn ngữ hài hước hóa của chèo đã được Tào Mạt vận dụng một cách sáng tạo”[6]. Nói đến thành công của Bài ca giữ nước không thể không kể đến vai trò của Đoàn chèo Tổng cục Hậu cần ngày trước, Nhà hát Chèo quân đội hôm nay. Trung tá Nguyễn Thuyên, Đoàn trưởng Đoàn chèo và các nghệ sĩ trong đoàn đã hết lòng ủng hộ, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho Tào Mạt thể nghiệm dựng vở theo phương thức sáng tác bốn khâu đồng thời – chưa từng xuất hiện trong các phương thức dựng vở chèo trước đây. Phương thức này độc đáo ở chỗ “đồng thời tiến hành sáng tác kịch bản, xử lí đạo diễn, diễn xuất, xử lí và sáng tác âm nhạc bao gồm cả xử lí làn điệu và viết ca khúc mới”[7]. Phương thức dựng vở có một không hai này đã xác lập vị trí vững chắc của Tào Mạt trong chiếu chèo hiện đại.

Ở phần dưới đây, chúng tôi muốn đề cập đến một phương diện khác trong tài năng nghệ thuật của Tào Mạt: những sáng tác thơ. Tào Mạt có tài ứng tác thơ nhanh. Trong một lần đi liên lạc, Tào Mạt bị rắn cắn. Trong lúc người đồng đội đi cùng lo lắng vì giữa rừng núi không biết tìm đâu ra thuốc chữa thương thì Tào Mạt lại tỉnh queo và xuất khẩu ngay một bài thơ về việc không hay xảy đến với mình: Vì dân vì nước quản bao công/ Rắn hỡi sao mày nỡ cắn ông/ Sưng múp bàn chân đi chẳng được/ Nhức tê gân cốt ngủ không xong/ Sống còn chưa trả thù xương máu/ Chết mất chưa đền nợ núi sông/ Rắn hỡi sao không đem nọc độc/ Cắn thằng giặc Pháp có hơn không? Mặt khác, như đã nói ở trên, Tào Mạt giỏi Hán Nôm. Thơ ông viết đa phần bằng chữ Hán. Sau khi ông mất, gia đình và bạn bè đã tập hợp những sáng tác thơ chữ Hán của ông in thành tập Thơ Tào Mạt [Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, 1994]. Với tập thơ này [gồm 72 bài], có thể nói Tào Mạt là nhà thơ sáng tác bằng chữ Hán cuối cùng của nền thơ ca nước nhà. Thơ chữ Hán Tào Mạt, như lời nhận xét của giáo sư Đặng Thai Mai, là đã “tỏ rõ một tâm hồn nhân hậu”[8]. Sáng tác bằng thứ ngôn ngữ đi suốt chiều dài nghìn năm của văn học trung đại, thơ Tào Mạt như một lẽ tất nhiên chịu ảnh hưởng của thơ Đường. Về đề tài, ông có những bài thơ ngâm vịnh, tự thán, cảm tác, tức cảnh như các bài Vịnh ngọc trúc, Ngẫu tác, Vô đề 1, Vô đề 2, Ngẫu tác, Vãng phỏng Đinh lão lương y cảm tác, Việt Nam dân quân văn học gia chi hội thành lập đại hội hữu cảm, Trường Sơn tức cảnh… Về thể loại, theo thống kê của chúng tôi, trong số 72 bài có 56 bài viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, 7 bài viết theo thể thất ngôn bát cú, 7 bài theo thể ngũ ngôn và 2 bài theo thể tự do. Về từ ngữ, hình ảnh, thơ chữ Hán Tào Mạt xuất hiện nhiều hình ảnh quen thuộc trong thơ Đường như khả lân, giang tâm, bạch vân, lâm tuyền, lưu thủy, thâm sơn… Tuy vậy bên cạnh nét cổ điển, thơ chữ Hán Tào Mạt vẫn có sự hiện đại mang hơi thở của cuộc sống ngày hôm nay. Thơ chữ Hán Tào Mạt có thể chia thành hai dòng. Thứ nhất, dòng thơ “hướng nội” bộc bạch giãi bày tâm trạng. Ở dòng thơ này, Tào Mạt dùng thơ để nói lên quan niệm của mình về văn học nghệ thuật như bài Ngẫu tác: Bản vị văn chương bất dụng quyền/ Đao sơn kiếm thụ diệc như nhiên/ Chu kiềm kim tưởng tương hà bổ/ Chỉ phạ tâm thư tảo thất truyền [Trần Đình Ngôn dịch thơ: Văn chương vốn chẳng dùng quyền/ Rừng gươm núi giáo mặc nhiên xá gì/ Vàng son thưởng thặng thêm chi/ Tình trong trang sách sợ khi thất truyền]; hay giãi bày tâm trạng mình trước những “biến động” của bản thân, gia đình và xã hội như bài Vô đề 2: Thế cục âm trầm lộ vị can/ Trường đồ hãn mã đáo nan quan/ Thùy tri lãng đả nan quan phá/ Tiêu sắt thu thanh thiết cước hàn [Lê Vũ Hoàng dịch thơ: Cuộc thế âm thầm, sương vẫn ướt/ Ngựa nhoài, dặm thẳm, cửa khôn vượt/ Ai hay sóng vỗ cửa tan hoang/ Gió bấc đìu hiu, vó ngựa buốt]. Dòng thơ thứ hai là dòng thơ “hướng ngoại”, ông viết trong lúc thù tạc, trò chuyện với bạn bè [các bài Tặng Phùng Quán, Tặng Vũ Cao văn huynh, Tặng Phạm Tiến Duật thi hữu…]; viết viếng người đã khuất [Điếu Nguyễn Tuân tiên sinh, Điếu Đặng Thai Mai giáo sư…]; viết mừng thọ [Song Kim nhân dân nghệ sĩ bát thập đại thọ, Tặng Bạch Trà nghệ sĩ bát tuần đại thọ…]. Đặc biệt, Tào Mạt có chùm bốn bài thơ bày tỏ lòng ngưỡng mộ, kính trọng của mình đối với Đại tướng Võ Nguyên Giáp [các bài Vịnh Võ Nguyên Giáp đồng chí, Hạ Võ đại tướng bát tuần đại thọ, Cung hạ Võ đại tướng đắc vinh tưởng kim tinh huân chương, Ngộ Võ Nguyên Giáp đại tướng bộ hành, khẩu chiếm]. Trong bốn bài này, theo chúng tôi bài Vịnh Võ Nguyên Giáp đồng chí là hay hơn cả. Qua hai mươi tám chữ Hán cô đọng, súc tích, Tào Mạt đã làm toát lên thần thái, văn tài, võ đức của người anh cả Quân đội nhân dân Việt Nam: Võ lược văn tài loạn thế sinh/ Khai nguyên định giáp quán trung tinh/ Vi sư, vi tướng, vi nhân giả/ Phát bạch, tâm thanh lạc thái bình [Nguyễn Văn Huyền dịch thơ: Võ lược, văn tài, đời loạn sinh/ Khai nguyên, định giáp, ngời trung trinh/ Làm thầy, làm tướng: bậc nhân giả/ Tóc bạc, lòng trong, vui thái bình].

3. Đa tài, giàu nghị lực, ham học, luôn biết cách vươn lên trong đời sống, không ngừng sáng tạo đổi mới nghệ thuật chèo, sống giản dị, chu đáo với gia đình, bè bạn và đồng nghiệp, Tào Mạt xứng đáng là người nghệ sĩ – chiến sĩ cách mạng chân chính của Quân đội nhân dân Việt Nam. Để khép lại bài viết này, chúng tôi xin dẫn lại đôi đoạn trong bài Tào Mạt chân dung độc vận phú của một người đàn em viết tặng ông như một bản “tóm tắt” về cuộc đời, tài năng và nhân cách của Tào Mạt, người nghệ sĩ chèo xuất sắc của chiếu chèo quân đội nói riêng, chiếu chèo Việt Nam nói chung.

Dòng họ Nguyễn Duy

Bút danh Tào Mạt

Gia cảnh thanh bần

Văn chương hiển đạt

Mười hai tuổi đã canh phòng liên lạc, đánh Tây đuổi Nhật chẳng mơ ngày tiến chức thăng quan;

Bốn bảy năm từng đội mũ đeo sao, ra Bắc vào Nam, không màng chuyện tuyên dương đề bạt…

Tài hoa sắc sảo hơn người, khéo tay hay mắt, soạn tích trò nên công chúng ngợi khen;

Ý tưởng thông minh lấn chúa, thực bụng mếch lòng, bàn việc nước để thượng quan quở phạt.

Xây đời giữ nước, soạn bài ca đưa sử vào chèo;

Chúc bạn mừng thầy bút họa đề thơ lên quạt.

Học nghề học chữ, thủy chung trọn nghĩa, lòng chẳng đổi thay;

Thương vợ thương con, tận tụy cả đời, tình không phai nhạt.

Lo thế sự một niềm đau đáu, lí tưởng kia lửa đỏ bừng bừng;

Đau nhân tình muôn nỗi xót xa, tâm linh ấy hương lan ngào ngạt

Thu Nguyệt

Theo nguồn: //vannghequandoi.com.vn/binh-luan-van-nghe/tao-mat-nguoi-nghe-si-quan-doi-chinh-truc-tai-hoa_10169.html

Video liên quan

Chủ Đề