Não chỉ tác dụng làm nguội máu là gì năm 2024
Truyền máu là cần thiết để cung cấp Oxy đến các tế bào khi nồng độ Hb máu thấp. Tuy nhiên, truyền máu cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro như: phản vệ, tổn thương phổi do truyền máu, quá tải thể tích với suy tim cấp, bệnh truyền nhiễm qua đường máu, tán huyết, hạ thân nhiệt.v.v. Vì vậy, xác định ngưỡng để truyền máu dựa trên khuyến cáo từ kết quả các nghiên cứu là quyết định lâm sàng ưu tiên, đặc biệt trong bối cảnh cấp cứu và hồi sức tích cực. Xem thêm: Tổng quan về truyền máu và chế phẩm máu Show
Bệnh nhân với huyết động không ổn định và chảy máu đang tiếp diễn(hoặc chảy máu ồ ạt) thì nên truyền theo tỷ lệ 1:1:1 tương ứng với 1 đơn vị hồng cầu khối : 1 đơn vị huyết tương tươi đông lạnh : 1 đơn vị tiểu cầu hoặc tỷ lệ 6:6:1 (khi sử dụng tiểu cầu gạn tách [apheresis]). Về dự đoán truyền máu số lượng lớn thường sử dụng thang điểm ABC. Với các chiến lược trong điều trị Xuất huyết ồ ạt và truyền máu khẩn cấp Tình trạng Ngưỡng Hb để truyền máu Bệnh nhân có triệu chứng (vd: thiếu máu cơ tim cục bộ, huyết động không ổn định) 10 g/dL (*) Bệnh nhân nằm viện Bệnh động mạch vành có sẵn (trước đó) 8 g/dL (*) Hội chứng vành cấp, bao gồm nhồi máu cơ tim cấp 8 - 10 g/dL (¶) Bệnh nhân ICU (huyết động ổn định) 7 g/dL (*) Xuất huyết tiêu hóa (huyết động ổn định) 7 g/dL (*) Phẫu thuật chỉnh hình 8 g/dL (*) Phẫu thuật tim 8 g/dL (*) Bệnh nhân ngoại trú cấp cứu Bệnh nhân điều trị ung thư 7 - 8 g/dL (¶) Chăm sóc giảm nhẹ Khi cần đối với các triệu chứng, những lợi ích của cơ sở điều trị chăm sóc có thể khác nhau
Bình thường tiểu cầu 150.000 - 450.000 /µL.Tỷ lệ giảm tiểu cầu trong ICU là 60%, thời gian sống của tiểu cầu trong tuần hoàn khoảng 7 - 10 ngày. 1/3 số tiểu cầu truyền vào bị Lách giữ lại trong hoàn cảnh bình thường. Dấu hiệu kinh điển xuất huyết do giảm tiểu cầu là xuất huyết ở da và niêm mạc. Chảy máu tự nhiên kể cả não xảy ra khi tiểu cầu < 5.000 /µL. Chảy máu sau phẫu thuật xảy ra khi tiểu cầu < 50.000 /µL. Tình trạng Ngưỡng truyền tiểu cầu khi tiểu cầu Chảy máu xác định rõ là có liên quan đến giảm số lượng tiểu cầu Bất kể số lượng Rối loạn chức năng tiểu cầu kèm lâm sàng có chảy máu < 100.000 /µL Phẫu thuật lớn, phẫu thuật có nguy cơ chảy máu cao (mắt, thần kinh,..) < 100.000 /µL Chảy máu khối lượng lớn (#), đa chấn thương, chấn thương sọ não < 100.000 /µL Thủ thuật, phẫu thuật nhỏ < 50.000 /µL Có nguy cơ chảy máu (hoặc bệnh nhân nặng, nguy cơ tử vong cao) < 20.000 /µL Dự phòng chảy máu tự nhiên (gồm cả não) < 10.000 /µL (#) Trường hợp truyền máu khối lượng lớn (do chảy máu khối lượng lớn) nên truyền theo tỷ lệ 1:1:1 của 1 đơn vị khối hồng cầu : 1 đơn vị huyết tương tươi đông lạnh : 1 đơn vị tiểu cầu, bất kể là số lượng tiểu cầu ban đầu bao nhiêu. Hoặc tỷ lệ 6:6:1 (khi sử dụng tiểu cầu gạn tách [apheresis]). Xem thêm: Giảm tiểu cầu trong ICU Không truyền tiểu cầu (trừ khi có chảy máu đe dọa tính mạng) trong các trường hợp sau:
Quyết định truyền huyết tương tươi đông lạnh dựa trên sự hiện diện của chảy máu và bất thường xét nghiệm:
Được chỉ định trong các tình trạng:
Liều bắt đầu truyền trong đa số các trường hợp 10 - 15 mL/kg (12 - 15 mL/kg trong một số tài liệu khác) hoặc 2 - 4 đơn vị giúp tăng yếu tố đông máu lên 30%. Bệnh tan máu bẩm sinh (thalassemia) được thế giới phát hiện và nghiên cứu từ năm 1925. Tại Việt Nam, bệnh được các nhà khoa học nghiên cứu từ năm 1960. Bệnh tan máu bẩm sinh (thalassemia) là gì?Bệnh tan máu bẩm sinh (thalassemia) là một nhóm bệnh huyết sắc tố gây thiếu máu, tan máu di truyền. Mỗi thể bệnh là do bất thường tổng hợp một loại chuỗi globin; Có hai thể bệnh chính là alpha thalassemia và beta thalassemia; ngoài ra có các thể phối hợp khác như thalassemia và bệnh huyết sắc tố. Tình hình bệnh tan máu bẩm sinh trên thế giớiThalassemia (tan máu bẩm sinh) là bệnh di truyền có tỷ lệ cao nhất trên thế giới. Theo báo cáo của Liên đoàn Thalassemia Thế giới năm 2012 (TIF – Thalassemia International Federation), có khoảng 7% dân số trên thế giới mang gen bệnh huyết sắc tố và thalassemia. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO – World Health Organisation), bệnh huyết sắc tố (HST) ảnh hưởng tới 71% số nước trên thế giới; khoảng 7% phụ nữ có thai mang gen bệnh huyết sắc tố và khoảng 1,1% các cặp vợ chồng có nguy cơ sinh con bị mang gen bệnh. Mỗi năm có khoảng 60.000 – 70.000 trẻ em sinh ra bị bệnh thalassemia mức độ nặng. Bệnh tập trung nhiều ở vùng Địa Trung Hải, Trung Đông, Châu Á – Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam. Tỷ lệ mang gen bệnh thalassemia tại Việt NamHiện nay, ở nước ta có khoảng trên 12 triệu người mang gen bệnh tan máu bẩm sinh và có trên 20.000 người bệnh mức độ nặng cần phải điều trị cả đời. Mỗi năm có thêm khoảng 8.000 trẻ em sinh ra bị bệnh thalassemia, trong đó có khoảng 2.000 trẻ bị bệnh mức độ nặng và khoảng 800 trẻ không thể ra đời do phù thai. Người bị bệnh và mang gen có ở tất cả các tỉnh/thành phố, các dân tộc trên toàn quốc. Chi phí điều trị trung bình cho một bệnh nhân thể nặng từ khi sinh ra tới 30 tuổi hết khoảng 3 tỷ đồng. Một người bệnh mức độ nặng từ khi sinh ra đến 21 tuổi cần truyền khoảng 470 đơn vị máu để duy trì đời sống. Mỗi năm, cả nước cần có trên 2.000 tỷ đồng để cho tất cả bệnh nhân có thể được điều trị tối thiểu và cần có khoảng 500.000 đơn vị máu an toàn. Bệnh tan máu bẩm sinh di truyền như thế nào?Bệnh tan máu bẩm sinh (thalassemia) là bệnh di truyền lặn trên nhiễm sắc thể thường. Do vậy tỷ lệ nam và nữ bị bệnh như nhau. Khi cả vợ và chồng cùng mang gen bệnh thalassemia thì mỗi lần sinh có 25% nguy cơ con bị bệnh, 50% khả năng con mang một gen bệnh và 25% khả năng con bình thường. Các mức độ của bệnh tan máu bẩm sinhBệnh tan máu bẩm sinh có nhiều mức độ lâm sàng khác nhau: – Mức độ rất nặng: Thai nhi phù, thường tử vong trước hoặc ngay khi sinh; – Mức độ nặng và trung bình: bệnh nhân có các biểu hiện lâm sàng chung như: Thiếu máu (trung bình đến nặng); Hoàng đảm; Lách to, gan to; Chậm phát triển thể chất; Biến dạng xương (xương sọ, xương mặt, …); Rối loạn nội tiết: đái đường, suy giảm chức năng sinh dục, …; Xơ gan, suy gan; Suy tim, rối loạn nhịp tim…; – Mức độ nhẹ: người bệnh chỉ bị thiếu máu nhẹ (dễ bị chẩn đoán nhầm với các bệnh lý khác như thiếu máu thiếu sắt); Người mang gen bệnh tan máu bẩm sinh không có biểu hiện lâm sàng, có thể không thiếu máu. Bệnh tan máu bẩm sinh có những biểu hiện và biến chứng gì?Do mất cân bằng trong quá trình tổng hợp chuỗi globin nên dẫn đến việc sinh hồng cầu không đáp ứng được nhu cầu của cơ thể và gây ra các hậu quả:
|