Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là gì

Vấn đề đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chú trọng. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, việc tiếp tục đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị là nhiệm vụ rất quan trọng, góp phần giữ vững và tăng cường vai trò cầm quyền, lãnh đạo toàn diện đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam trên con đường hội nhập và phát triển.

Ảnh minh họa: Internet

Sau hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã đạt được những thành tựu toàn diện, to lớn và quan trọng; trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, đời sống của Nhân dân có nhiều thay đổi; dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và mở rộng, đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường. Công tác xây dựng Ðảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng đi vào chiều sâu; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.

Tuy nhiên, vai trò và sự lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị vẫn còn một số hạn chế cần được hoàn thiện. Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ; hiệu lực, hiệu quả chưa cao”[1]. Việc thể chế hóa, cụ thể hóa một số nghị quyết của Đảng còn chậm; tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu. Công tác tư tưởng còn có mặt hạn chế, thiếu kịp thời, tính thuyết phục chưa cao. Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao. Việc ban hành nghị quyết của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa sát thực tiễn, thiếu tính khả thi; việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số nghị quyết chưa nghiêm, hiệu quả thấp, chưa đạt yêu cầu đề ra. Tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng còn xảy ra ở một số nơi. Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiên phong, gương mẫu; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vẫn còn diễn biến phức tạp”[2].

Do vậy, việc tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị luôn được đặc biệt quan tâm. Nhằm bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, đồng thời tôn trọng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động, vai trò, tính tự chủ, năng động, sáng tạo của các tổ chức trong hệ thống chính trị, cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Một là, nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đảng ta phải tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền; giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng; nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị, trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ cấp chiến lược. Tích cực đấu tranh, phản bác có hiệu quả quan điểm sai trái của các thế lực thù địch; thực hiện nghiêm các nguyên tắc, quy định; thực hành dân chủ gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Coi trọng năng lực dự báo và ứng phó với các thách thức, diễn biến khó lường của tình hình khu vực và thế giới. Cần có các chủ trương, giải pháp cụ thể, bám sát và xuất phát từ thực tiễn, đánh giá tác động, bố trí nguồn lực và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Nâng cao năng lực thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng; kiên quyết khắc phục những yếu kém, trì trệ, tình trạng né tránh trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, điều hành và tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết; kiểm tra, giám sát chặt chẽ, xác định rõ trách nhiệm tập thể và cá nhân.

Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Ðó là sự lựa chọn duy nhất đúng và được thực tiễn kiểm nghiệm; kiên quyết giữ vững nguyên tắc lãnh đạo trong mọi điều kiện, hoàn cảnh và giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Ðảng. Điều đó đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải nhận thức đầy đủ và sâu sắc để thường xuyên có kế hoạch nghiên cứu học tập, nâng cao trình độ, tư duy lý luận, nhận thức để phân tích, tổng kết thực tiễn, năng lực đề ra quyết sách đúng và tổ chức thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối, của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Hai là, thường xuyên đổi mới, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị.

Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng yêu cầu: “Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng nâng cao năng lực dự báo, tầm nhìn chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương; đổi mới việc xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng các nghị quyết của Đảng; khắc phục tình trạng ban hành nghị quyết chưa sát thực tiễn, thiếu tính khả thi”[3]. Đảng cần đổi mới tư duy lý luận, nâng cao tầm nhận thức về vị thế cầm quyền, lãnh đạo; đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành nghị quyết. Đồng thời, phải làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, đảm bảo cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh tiêu biểu về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Đồng thời, không ngừng chỉnh đốn về tổ chức, lề lối làm việc... nghiêm túc nhìn nhận những ưu điểm để phát huy, khuyết điểm để khắc phục sửa chữa, góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh.

Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, đội ngũ cán bộ, đảng viên và của toàn thể Nhân dân; xây dựng Nhà nước thực sự là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Có sự phối hợp hiệu quả giữa cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng và thực hiện nội dung cầm quyền, lãnh đạo của Đảng. Tiếp tục nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất ý chí và hành động trong các cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy và tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Hoàn thiện mô hình tổ chức của hệ thống chính trị; xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị; quan tâm đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội để đáp ứng mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ phát triển mới.

Ba là, tăng cường xây dựng Đảng về tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình.

Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng nêu rõ: “Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn thấp, nhất là việc tổ chức thực hiện nghị quyết và khả năng phát hiện, đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo giải quyết các vấn đề phát sinh ở cơ sở”[4]. Do vậy, xây dựng tổ chức cơ sở đảng phải hướng vào nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, nhất là ở cấp xã. Việc tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng phải gắn với thực hiện đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp hoạt động theo hướng vừa mở rộng dân chủ, vừa tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội”[5].

Khắc phục tính hình thức trong sinh hoạt đảng, bảo đảm sự lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu và thực hành dân chủ của tổ chức cơ sở đảng. Từ đó, tạo chuyển biến về chất lượng hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trên mọi lĩnh vực để xây dựng và phát triển đất nước nhanh và bền vững. Cấp ủy các cấp trước hết cần đổi mới cách ra nghị quyết theo hướng ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, dễ triển khai thành chương trình hành động cụ thể. Tăng cường công tác kiểm tra của cấp ủy cấp trên đối với cấp ủy cấp dưới, nhất là kiểm tra việc thực hiện quy chế, chương trình làm việc để kịp thời phát hiện, uốn nắn những thiếu sót trong thực hiện. Đồng thời, các cấp ủy cần chỉ đạo xây dựng các đề án, chương trình, kế hoạch, giải pháp cụ thể để tập trung xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh.

Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ nhằm nâng cao tính tích cực và năng lực sáng tạo của đảng viên; bảo đảm tính kỷ luật tự giác của mỗi tổ chức đảng và đảng viên. Do đó, cần nhận thức thống nhất và có cơ chế cụ thể để thực hiện, kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng và hành động sai trái. Các cấp ủy và tổ chức đảng cần bảo đảm thực hiện và phát huy đầy đủ quyền của đảng viên trong xây dựng quy chế, quy định để đảng viên tham gia trực tiếp vào quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Cán bộ lãnh đạo, trước hết là người đứng đầu cấp ủy đảng phải tôn trọng, lắng nghe những ý kiến của đảng viên, của cấp dưới, lắng nghe những ý kiến khác nhau trước khi quyết định.

Thực hiện dân chủ trong công tác cán bộ, đấu tranh với những khuynh hướng dân chủ hình thức hoặc dân chủ cực đoan muốn lợi dụng dân chủ để chia rẽ, bè phái, đả kích. Mọi cán bộ, đảng viên dù ở cương vị công tác nào đều phải thực hiện nghiêm kỷ luật, kỷ cương và chấp hành theo nghị quyết. Tập trung dân chủ phải gắn với phân công cá nhân phụ trách, phát huy tinh thần trách nhiệm và tính tiền phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bên cạnh đó, thực hiện nghiêm chế độ tự phê bình và phê bình, chăm lo củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, trên cơ sở nguyên tắc tổ chức và tình thương yêu đồng chí. Giải quyết dứt điểm tình trạng mất đoàn kết ở một số nơi; kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, kèn cựa, lợi ích nhóm địa vị, cục bộ bản vị... xây dựng tình thương yêu đồng chí, đồng đội; tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ vì sự nghiệp cách mạng.

Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức, năng lực thực hiện nhiệm vụ.

Thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có đủ phẩm chất đạo đức, năng lực và uy tín, ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ. Phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, các cơ quan, đơn vị. Kiên quyết đấu tranh phòng, chống các biểu hiện chủ nghĩa cơ hội, xét lại, giáo điều, bảo thủ, bè phái, những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Coi trọng đánh giá chất lượng, hiệu quả, sản phẩm thực tế theo chức trách, nhiệm vụ được giao và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu. Chú trọng cơ cấu hợp lý, quan tâm phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số ở các cấp, nhất là ở cơ sở.

Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thực sự tiên phong, gương mẫu trước Nhân dân, nói đi đôi với làm, nói ít làm nhiều, “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung”[6]. Thực hiện tốt phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” và nguyên tắc: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”[7]. Cần quản lý chặt chẽ cán bộ ngay từ cơ sở, phát hiện và xử lý kịp thời những hiện tượng vi phạm pháp luật và Điều lệ Đảng nhằm làm trong sạch nội bộ Đảng. Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo động lực cho cán bộ rèn luyện, phấn đấu hoàn thành tốt công việc; kiên quyết phòng, chống các biểu hiện bè phái, “lợi ích nhóm” trong công tác cán bộ. Công tác cán bộ là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong giai đoạn cách mạng mới. Do đó, cần đổi mới phương pháp tiến hành công tác cán bộ theo hướng thật sự dân chủ trên cơ sở nắm vững quan điểm giai cấp, có chính sách đoàn kết tập hợp cán bộ để đào tạo, bồi dưỡng và thu hút, trọng dụng nhân tài của đất nước, tránh tình trạng chảy máu chất xám. Thực hiện trẻ hóa đội ngũ cán bộ, đồng thời bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển trong xây dựng đội ngũ cán bộ. Sử dụng, bố trí cán bộ đúng người, đúng việc, phù hợp với khả năng trình độ và sở trường. Có chính sách đãi ngộ hợp lý để đội ngũ cán bộ yên tâm công tác. Xử lý kiên quyết với những cán bộ vi phạm về phẩm chất đạo đức, lối sống, thoái hóa biến chất.

Từng bước đào tạo đội ngũ cán bộ đáp ứng nhiệm vụ cách mạng và tạo nguồn cán bộ kế cận lâu dài. Chú trọng thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, thật sự tiền phong, gương mẫu, có trách nhiệm cao trong công việc, có trí tuệ, phẩm chất đạo đức cách mạng, tinh thần đoàn kết, ý thức tổ chức kỷ luật cao và có năng lực để hoàn thành tốt nhiệm vụ, kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Các cấp ủy cần quan tâm hơn nữa đến công tác chính trị, tư tưởng, trang bị kịp thời những thông tin, định hướng cho cán bộ, đảng viên, nhất là trước tác động của những thông tin phức tạp, nhạy cảm, khiến dư luận quan tâm; quán triệt và cụ thể hóa thực hiện các chủ trương, chính sách bảo đảm nghiêm túc, phù hợp với tình hình thực tiễn mỗi cơ quan, đơn vị; đồng thời, thường xuyên rà soát, kiên quyết xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật và quy định của Đảng.

Thực tiễn qua 92 năm xây dựng, phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã khẳng định, nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là không ngừng nâng cao năng lực cầm quyền, lãnh đạo và sự đổi mới, sáng tạo của Đảng trong hệ thống chính trị, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.

----------------------------------

Ghi chú:

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG-ST H.2021, tr.93.

[2], [3], [4], [5], [6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.223, tr.231, tr.235, tr.189, tr.243.

[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb CCTQ-ST, H.2011, tr.51.

TS. Bùi Quang Huy - Trường Sĩ quan Chính trị, Bộ Quốc phòng

Theo: //tcnn.vn/

Video liên quan

Chủ Đề