Một số kinh nghiệm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 2
SKKN một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 2 qua các môn họcBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (576.26 KB, 15 trang ) Show
1 lớp 2 qua các môn học ,đó cũng chính là nội dung đề tài mà tôi đã nghiên cứu,thực hiện “Một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 2 qua các môn học ‘,nhằm trang bị cho các em những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời. II- Mục đích nghiên cứu: Giúp HS ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội,giúp HS hiếu biết về thế chất,tinh thần của bản thân mình,có hành vi, thói quen ứng xử có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật… Giúp HS có đủ khả năng tự thích ứng với môi trường xung quanh,tự chủ ,độc lập tự tin khi giải quyết công việc III- Đối tượng nghiên cứu: 2 Trong quá trình dạy học, tôi đã nghiên cứu đặc điểm các bài dạy có nội dung lồng ghép giáo dục kĩ năng sống trong môn Tiếng Việt lớp 2 và thực tế dạy học môn Tiếng Việt lớp 2. Tìm hiểu một số đặc điểm cơ bản của kĩ năng sống được hình thành qua việc học tập một số môn học tại lớp 2D và học sinh khối lớp 2-Trường Tiểu học Thị Trấn Triệu Sơn –Thanh Hóa năm học 2014-2015. IV- Phương pháp nghiên cứu: Trong đề tài này tôi sử dụng phối kết hợp các nhóm phương pháp dạy học như sau: - Phương pháp điều tra ( học sinh trả lời trắc nghiệm). - Phương pháp thống kê. - Phương pháp phỏng vấn . - Phương pháp phân tích tổng hợp. - Phương pháp so sánh (So sánh kết quả trước và sau khi thực hiện đề tài). - Phương pháp thực hành ( giáo dục kĩ năng sống cho HS thông qua các hoạt động, để HS tự cảm nhận.đánh giá .nhận xét qua các hành vi và từ đó hình thành các kĩ năng; thực hiện sự phối hợp trong và ngoài nhà trường, làm tốt công tác xã hội hóa trong việc giáo dục kĩ năng sống ). PHẦN II: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. I- Cơ sở lí luận: Kĩ năng sống là những kĩ năng tâm lý – xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống, giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc sống có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại... Kĩ năng sống đơn giản là tất cả điều cần thiết mà chúng ta phải biết để có được khả năng thích ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống. Là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ hành vi, thói quen tích cực lành mạnh. Nghiên cứu khoa học gần đây về sự phát triển của não trẻ cho thấy rằng khả năng giao tiếp với mọi người, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình, biết cách ứng xử phù hợp với các yêu cầu, biết giải quyết các vấn đề cơ bản một cách tự lập có những ảnh hưởng rất quan trọng đối với kết quả học tập của trẻ tại trường Giáo dục kĩ năng sống phải được bắt đầu từ khi trẻ còn rất nhỏ, đặc biệt ở lứa tuổi Tiểu học. Bởi vì lửa tuổi này đã hình thành những hành vi các nhân, tính cách và nhân cách. Việc làm quen với các môn học để hình thành và xây dựng cho các em các kĩ năng sống như: Giao tiếp, thuyết trình, làm việc theo nhóm,… sẽ giúp các em tự tin, chủ động biết cách xử lí mọi tình huống trong cuộc sống và quan trọng hơn là khơi gợi những khả năng tư duy sáng tạo, biết phát huy thế mạnh của các em. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh sẽ hình thành và tập 3 dượt cho các em những hành vi, thói quen, kĩ năng xử lý các tình huống diễn ra trong cuộc sống. Học sinh Tiểu học là những học sinh đang ở độ tuổi 6 - 11 tuổi, độ tuổi có nhiều biến động về tâm sinh lý rất nhạy cảm dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường sống bên ngoài tác động Ngày nay,rèn luyện kĩ năng sống cho thế hệ trẻ mà tiêu biểu là các em học sinh, là trách nhiệm chung của gia đình- nhà trường và xã hội. Trong đó người giáo viên giữ vai trò quyết định. Hiện nay, đa số học sinh sống trong hai môi trường có hoàn cảnh khác nhau: một là các em được sự quan tâm chăm sóc quá mức chu đáo của phụ huynh, vì sống trong gia đình ít con, hoàn cảnh kinh tế ổn định ; hai là những em sống trong gia đình với nhiều lo toan cho cuộc mưu sinh, phụ huynh bỏ mặc con cái.Môi trường hoàn cảnh khác nhau ấy lại thường cùng mang đến cho các em một thiếu sót lớn trong từng bước trưởng thành, đó là kĩ năng sống. Vì vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học qua học tập – sinh hoạt ở trường học là điều hết sức cần thiết. II. Thực trạng: 1. Thuận lợi - Được sự quan tâm cùa ban giám hiệu nhà trường,tổ , khối và các thầy cô trong nhà trường thường xuyên trao đổi phương pháp dạy học qua các tiết dự giờ,thao giảng đã giúp tôi có nhiều kinh nghiệm trong công tác giảng dạy . - Về phía học sinh lớp 2D , tôi chủ nhiệm năm học 2014-2015 có 30 hoch sinh ( 12 nữ - 18 nam ) .Trong đó có 12 em thuộc gia đình cán bộ công chức,18 em còn lại thuộc gia đình buôn bán và làm nghề nông. Đa số các em có đù đồ dùng học tập ,được gia đình quan tâm . - Lứa tuổi các em học mà chơi- chơi mà học nên các em rất thể thâm nhập tiếp thu các kiến thức một cách năng động , sáng tạo. 2. Khó khăn - Nội dung các bài học vốn đã nhiều,thời lượng lại ít nên khó lồng ghép giáo dục kĩ năng sống vào. - Một số gia đình chưa thực sự kết hợp với nhà trường,giáo viên chủ nhiệm,có thái đọ chưa đúng trong công tác giáo dục học sinh,chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập của con em mình. - Qua thực tế giảng dạy ở lớp 2D, đầu năm tôi thấy kĩ năng sống của đa số học sinh chưa cao,các em chưa có nhận thức đầy đủ và ý thức trao dồi kĩ năng sống,chưa tích cực chủ động tham gia các hoạt động trải nghiệm để tạo lập rèn luyện kĩ năng sống. Các em có nhận xét,đánh giá về sự việc , nhưng chưa có cách ứng xử cách xưng hô chuẩn mực. - Ngoài ra ở lớp có một số học sinh điều kiện kinh tế gia đình gặp khó khăn. Học sinh phải ở nhà với người thân,ông bà (vì bố mẹ bận đi làm ăn xa), 4 thiếu sự quan tâm dạy dỗ của bố mẹ. Đây chính là điệu kiện tốt để các tệ nạn xã hội xâm nhập vào các em nếu không có sự quản lí tốt của nhà trường – gia đìnhxã hội. Vậy làm thế nào để hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho các em học sinh,tôi có một số ý kiến về các biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho các em như sau . III- Một số biện pháp thực hiện: * Giáo dục kĩ năng sống không hình thành trong “ngày một – ngày hai” mà phải có cả quá trình nhận thức – hình thành thái độ – thay đổi hành vi. Vì vậy người giáo dục cần kiên trì chờ đợi và tổ chức các hoạt động liên tục để học sinh duy trì hành vi mới và có thói quen mới, tạo động lực cho học sinh điều chỉnh hoặc thay đổi giá trị, thái độ và những hành vi trước kia. Dù là giáo dục kĩ năng sống nào thì cũng được thực hiện qua 4 bước: 1/ Khám phá: Kích thích học sinh tự tìm hiểu xem các em đã biết gì về những khái niệm, kĩ năng, kiến thức, ... sẽ được học. Giúp giáo viên đánh giá, xác định thực trạng (kiến thức, kĩ năng, ... ) của học sinh trước khi giới thiệu vấn đề mới. Ở bước này giáo viên đóng vai trò người lập kế hoạch, khởi động, đặt câu hỏi, nêu vấn đề ; học sinh cần chia sẻ, trao đổi, phản hồi, xử lí thông tin, ghi chép. Một số kĩ thuật dạy học chính được vận dụng như: động não, phân loại, thảo luận, trò chơi, đặt câu hỏi, ... 2/ Kết nối: Giáo viên giới thiệu mục tiêu bài học và kết nối chúng với các vấn đề đã chia sẻ ở bước 1. Giáo viên giới thiệu kiến thức và kĩ năng sống mới, kiểm tra xem kiến thức và kĩ năng mới đã được cung cấp toàn diện và chính xác chưa. Ở bước này, giáo viên là người hướng dẫn, học sinh là người phản hồi, trình bày ý kiến, đặt câu hỏi, trả lời. Một số kĩ thuật dạy học chính được vận dụng như: chia nhóm, thảo luận, trình bày, đóng vai, các phương tiện khác (chiếu phim, băng, đĩa, ...). 3/ Thực hành – luyện tập: Giáo viên thiết kế hoạt động mà theo đó yêu cầu học sinh phải sử dụng kiến thức và kĩ năng mới. Học sinh làm việc theo nhóm, cặp hoặc cá nhân. Giáo viên giám sát mọi hoạt động và điều chỉnh khi cần thiết. Giáo viên khuyến khích học sinh thể hiện những điều các em suy nghĩ hoặc mới lĩnh hội. Ở bước này, giáo viên là người hướng dẫn, người hỗ trợ ; học sinh là người thực hiện, người khám phá. Một số kĩ thuật dạy học chính được vận dụng như: đóng kịch ngắn, viết bài, hỏi – đáp, chia nhóm thảo luận, trò chơi... 4/ Vận dụng: Tạo cơ hội cho học sinh tích hợp, mở rộng và vận dụng kiến thức, kĩ năng có được vào tình huống mới. Ở bước này, giáo viên có thể đánh giá kết quả học tập của học sinh, giáo viên là người hướng dẫn, đánh giá, học sinh là người lập kế hoạch, sáng tạo, người giải quyết vấn đề, người trình bày và 5 người đánh giá. Một số kĩ thuật dạy học được vận dụng như : dạy học hợp tác, làm việc nhóm, trình bày cá nhân, dạy học dự án ... * Người giáo viên phải nghiên cứu kĩ năng sống cần rèn luyện qua từng bài dạy cho học sinh , xác định rõ nhiệm vụ của môn học và nhiệm vụ giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong môn học . Ví dụ như dạy học sinh học Tiếng Việt mà cụ thể qua phân môn Tập làm văn là giúp cho các em nói viết lưu loát, học sinh phát triển vốn từ ngữ,bồi dưỡng cảm xúc , tình cảm lành mạnh,trong sáng, khả năng lựa chọn sắp xếp ý rõ ràng, rèn khả năng tư duy trí tưởng tượng phong phú. Qua đó vốn sống của các em được tăng lên , giúp các em tự tin , có khả năng ứng xử linh hoạt trong cuộc sống. * Giáo viên phải nghiên cứu mục tiêu cần đạt của giờ học , chú trọng cung cấp kĩ năng sống phù hợp với nội dung bài dạy, cụ thể là việc chuẩn bị giáo án có lồng ghép cẩn thận . Trong quá trình dạy lồng ghép KNS cho học sinh thông qua các môn học cần phải khơi gợi và phát huy sự tham gia của các em bên cạnh sự hướng dẫn của giáo viên. Tuyệt đối không được phê bình hay đánh giá các em khi các em làm gì đó chưa tốt. Bởi nếu vậy sẽ làm mất sự chủ động, tự tin và hòa nhập cùng bạn bè vì ở lứa tuổi này các em rất muốn thể hiện mình. Ví dụ: như khi dạy đạo đức ở lớp 2, cụ thể nhất là ở tiết thứ 2 của mỗi bài , giáo dục cho các em kĩ năng sống như tính thật thà ; biết giúp đỡ người tàn tật người già; biết bảo vệ trường lớp sạch đẹp; đi học đều đúng giờ … * Trong quá trình dạy lồng ghép kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học thông qua các môn học cần phải khơi gợi và phát huy sự tham gia của các em bên cạnh sự hướng dẫn của giáo viên. Tuyệt đối không nên áp dụng ý kiến hay suy nghĩ chủ quan của giáo viên. Tuyệt đối không được phê bình hay đánh giá khi các em làm gì đó chưa tốt. Bởi nếu vậy sẽ làm mất sự chủ động, tự tin và hoà nhập cùng bạn bè vì ở lứa tuổi này các em rất muốn thể hiện mình. Xuất phát từ tình hình thực tiễn trên, tôi tìm nhiều biện pháp rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh thông qua các tiết dạy, các môn học, những giờ sinh hoạt nhằm đem lại hiệu quả cao. Để thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ năng sống, đem lại kết quả cao tôi nhận thấy cần phải áp dụng một số biện pháp sau: Biện pháp 1 : Gần gũi và tạo mối thân thiện với học sinh Đầu tiên, sau khi tôi nhận lớp, để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh và giáo viên chủ nhiệm, tôi sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh được giới thiệu về bản thân, động viên khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích, ước mơ tương lai cũng như mong muốn của tôi với các em. Đây là hoạt động giúp cô trò chúng tôi hiểu nhau, đồng thời tôi muốn tạo một môi trường học tập thân thiện - Nơi " Trường học thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em, cô giáo là người mẹ thứ 2 của các em". Đây cũng là một điều kiện theo tôi là 6 rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của học sinh. Bởi học sinh không thể mạnh dạn, tự tin trong một môi trường mà giáo viên luôn gò bó và áp đặt. Tiếp theo trong tuần đầu tôi cho học sinh tự do lựa chọn vị trí ngồi của mình để qua đó phần nào nắm được đặc điểm, tính cách của các em: mạnh dạn hay nhút nhát, thụ động, thích thể hiện hay lãng mạn...Và tiếp tục qua những tuần học sau, tôi chú ý quan sát những biểu hiện về thái độ học tập, những cử chỉ, hành vi tại vị trí ngồi mà các em chọn để bắt đầu có điều chỉnh phù hợp. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có thể thực hiện trong bất cứ lúc nào, giờ học nào. Để việc rèn luyện diễn ra một cách thường xuyên và đạt hiệu quả cao tôi tiếp tục: Biện pháp 2: Rèn kỹ năng sống hiệu quả qua việc tích hợp vào các môn học Sau đây là những bước chuẩn bị đầu tiên của tôi. Để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có hiệu quả tôi vận dụng vào các môn học, tiết học, nhất là các môn như: Tiếng Việt, Đạo đức; Tự nhiên và xã hội; An toàn giao thông .... a) Giáo dục KNS trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học nói chung ở Lớp 2 nói riêng có nhiệm vụ hình thành và phát triển ở HS các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt ( nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua hoạt động học tập môn Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác tư duy, góp phần mở rộng hiểu biết về tự nhiên và xã hội và con người. Do vậy, CT- ND dạy học môn Tiếng Việt chứa đựng nhiều nội dung liên quan đến KNS và có khả năng tích hợp giáo dục KNS rất cao. KNS đặc thù, thể hiện ưu thế của môn Tiếng Việt là KN giao tiếp, sau đó là KN nhận thức, bao gồm nhận thức thế giới xung quanh, tự nhận thức, ra quyết định, …Trong SGK Tiếng Việt, có nhiều bài học mà tên gọi của nó đã nói rõ mục tiêu giáo dục KN giao tiếp xã hội, như: Viết tự thuật, Lập danh sách HS, Lập thời gian biểu, Viết thiếp chúc Tết, Viết nhắn tin,… Chương trình môn Tiếng Việt chú trọng rèn luyện KN nhận thức cho HS thông qua một chương trình mang tính tích hợp: Tích hợp ở đơn vị kiến thức mới với những kiến thức và KN đã học trước đó theo nguyên tắc đồng tâm. Khả năng giáo dục KNS của môn Tiếng Việt không chỉ thể hiện ở nội dung môn học mà còn được thể hiện qua PPDH của giáo viên, người giáo viên cần phải vận dụng nhiều phương pháp dạy phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh như: Thực hành giao tiếp, trò chơi học tập, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, hoạt động nhóm, …HS có cơ hội rèn luyện nhiều KNS cần thiết. * Việc giáo dục KNS cho HS có thể thực hiện bất cứ giờ học nào. Ví dụ : Bài tập đọc “ Có công mài sắt có ngày nên kim” Tuần 1 - Các KNS cơ bản được giáo dục: 7 +Tự nhận thức về bản thân (hiểu về mình, biết tự đánh giá ưu khuyết điểm của mình để tự điều chỉnh) + Lắng nghe tích cực + kiên định + Đặt mục tiêu ( biết đề ra mục tiêu và lập kế hoạch thực hiện) - Các PP- KT dạy học tích cực có thể sử dụng: + Động não + Trình bày 1 phút + Trải nghiệm, thảo luận nhóm, chia sẻ thông tin, trình bày ý kiến cá nhân, phản hồi tích cực. Các kĩ năng được phát triển từ dễ đến khó. Sau bài học giới thiệu bản thân là những bài học như khám phá bản thân, tư duy hiệu quả và đặc biệt kĩ năng làm việc đồng đội. Tôi luôn tạo không khí thân thiện, áp dụng việc đổi mới phương pháp tạo điều kiện cho các em mạnh dạn, tự lập, tự khẳng định và phát huy mình hơn qua việc học nhóm. Hay khi dạy bài: "Cảm ơn, xin lỗi " phân môn Tập làm văn tôi cho học sinh chuẩn bị những hộp thư: Cảm ơn, xin lỗi và tổng kết lại vào cuối tiết. Em nào nhận được nhiều lời cảm ơn nhất sẽ được tuyên dương. Không những vậy tôi tổ chức cho các em trao đổi: - Em nói lời cảm ơn, xin lỗi khi nào? - Bạn đã cảm ơn em về điều gì? Em cảm thấy như thế nào khi được bạn cảm ơn, xin lỗi?... qua đó các em sẽ bộc lộ những suy nghĩ của mình. Rèn kĩ năng sống có hiệu quả còn được tôi vận dụng khá nhiều trong trong các môn học thông qua xử lí tình huống hay các trò chơi học tập có nội dung gần gũi với cuộc sống hằng ngày của các em. b) Như trong môn Tự nhiên: Giai đoạn lớp 1, 2, 3 là một môn học giúp HS có một kiến thức cơ bản ban đầu về con người và sức khỏe, về một sự vật hiện tượng đơn giản trong TN- XH; chú trọng đến việc hình thành và phát triển các KN trong học tập như quan sát, nêu nhận xét, thắc mắc… Vì vậy, môn TNXH ở Tiểu học nói chung là một trong những môn học phù hợp để GV có thể giáo dục KNS cho các em HS. - Các KNS chủ yếu trong môn TN- XH : + KN tự nhận thức: Tự nhìn nhận đánh giá về bản thân để xác định được mặt mạnh, mặt yếu của bản thân; biết vị trí của mình trong các mối quan hệ ở nhà, ở trường, ở cộng đồng. + KN tự phục vụ và tự bảo vệ: Biết cách tự phục vụ mình ( rửa mặt, đánh răng, tắm, tự bảo vệ chăm sóc sức khỏe…) 8 + KN ra quyết định: Nên và không nên làm gì để bảo vệ sức khỏe của bản thân; để ứng xử đúng phù hợp trong GĐ, NT và XH. + KN kiên định và KN từ chối: Kiên quyết giữ vững lập trường và nói lời từ chối trước những lời rủ rê của bạn bè và người xấu. + KN làm chủ bản thân: Biết đảm nhận trách nhiệm. + KN giao tiếp: Tự tin khi giao tiếp; lắng nghe tích cực; phản hồi xây dựng; bày tỏ sự thông cảm, chia sẻ- giúp đỡ bạn bè, những người có hoàn cảnh khó khăn. + KN hợp tác: Khả năng cá nhân biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết, biết chung sức làm việc có hiệu quả. + KN tư duy phê phán: Biết phê phán đánh giá các ý kiến, hành động, lời nói, việc làm, các hiện tượng trong cuộc sống hàng ngày. + KN tìm kiếm và ứng sử thông tin: Biết tìm kiếm và xử lí thông tin để giải quyết vấn đề trên cơ sở vận dụng tư duy phê phán và sáng tạo. Tóm lại: Dạy KNS trong môn TN- XH các em làm việc tích cực, vui vẻ, tự mỗi em nói được tiếng nói, suy nghĩ của mình với bạn bè, với thầy cô một cách tự tin mạnh dạn. Việc rèn luyện các kĩ năng này đã tạo ra được thói quen tốt cho bản thân mỗi em, các em tham gia một cách chủ động, tích cực vào quá trình học tập, tạo điều kiện cho các em chia sẻ những kinh nghiệm, ý kiến hay để giải quyết một vấn đề nào đó. Hiệu quả đào tạo kĩ năng sống không đong, đo, đếm được bằng những con số chính xác nhưng được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể: các em có ý thức, thái độ khác với mọi người trong gia đình; luôn hoà đồng với bạn bè; tự tin khi nói năng ... đó chính là hiệu quả từ giáo dục kĩ năng sống. Việc học sinh: sinh hoạt theo nhóm tạo môi trường làm việc thân thiện, giúp các em cải thiện hành vi giao tiếp thông qua các hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên. Các em trở nên thân thiện, từ đó giúp bầu không khí học tập, lao động trở nên sôi động hơn. Tham gia sinh hoạt theo nhóm giúp các em học sinh hưng phấn hơn trong học tập và tạo nên cách ứng xử hợp lý trong mọi tình huống. Khi sinh hoạt nhóm, tôi luôn đưa ra nhiều tình huống tạo sự phát triển tư duy cho các em. Đó cũng là cách tạo sự gần gũi giữa các em với nhau. Ngoài ra tôi chú ý rèn luyện sức khoẻ và ý thức bảo vệ sức khoẻ, kĩ năng phòng chống tai nạn giao thông và các thương tích khác qua các môn học: Ai cũng biết rằng sức khỏe là tài sản vô cùng quý báu của mỗi con người. Học tập tốt, đạo đức tốt là những điều học sinh phải đạt được thì rèn luyện sức khỏe tốt cho học sinh là điều phải được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, có được một sức khỏe tốt và bảo vệ được nó thì thật không dễ. Dù vậy không có nghĩa là không làm được, nhiều khi sức khỏe của các em phụ thuộc vào những điều rất giản dị. Đó chính là giáo dục một lối sống khoa học. Tôi rèn luyện sức khoẻ cho các em qua các tiết học trên lớp như: 9 Ở môn Tự nhiên và xã hội “ Bài 4: Làm gì để xương và cơ phát triển tốt. Ở bài này các KNS cần được giáo dục: KN ra quyết định nên và không nên làm gì để xương và cơ phát triển tốt; KN làm chủ bản thân: đảm bảo trách nhiệm thực hiện các hoạt động để xương và cơ phát triển tốt ” “ Bài 6: Tiêu hóa thức ăn. ở bài này các KN cần giáo dục là: KN ra quyết định, KN tư duy phê phán, KN làm chủ bản thân”… c) Giáo dục KNS trong môn Đạo đức ở Tiểu học nói chung ở lớp 2 nói riêng: Khả năng giáo dục KNS của môn Đạo đức không những thể hiện ở nội dung môn học mà còn được thể hiện ở PP dạy học đặc trưng của môn học. Đế các chuẩn mực đạo đức, phát luật xã hội trở thành tình cảm, niềm tin, hành vi và thói quen của HS, PP dạy môn Đạo đức đã được đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS. Qua các tiết học giáo dục HS thông qua các HĐ học tập phong phú, đa dạng như: Kể chuyện theo tranh, quan sát tranh ảnh, tiểu phẩm, trò chơi… Ở môn Đạo đức giáo dục học sinh KNS là: + KN giao tiếp ( chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, gọi điện và nhận điện thoại...). + KN tự nhận thức( biết xác định và đánh giá bản thân …). Tự nhận thức là một KNS rất cơ bản của con người, là nền tảng để con người giao tiếp, ứng xử phù hợp và hiệu quả với người khác. + KN xác định giá trị (có tình cảm và niềm tin vào các chuẩn mực hành vi đạo đức đã học ). + KN ra quyết định và giải quyết vấn đề ( bước đầu biết lựa chọn và thực hiện- xử lí tình huống đạo đức đơn giản). + KN tư duy phê phán. + KN từ chối ( biết cách từ chối khi bị rủ rê, lôi kéo làm những điều sai trái). + KN hợp tác ( biết hợp tác với các bạn xung quanh để giải quyết một vấn đề gì đó mà một mình không thể giải quyết được ). + KN đặt mục tiêu. + KN tìm kiếm và xử lí thông tin về các vấn đề, hiện tượng trong đời sống thực tiễn có liên quan đến các chuẩn mực đạo đức, pháp luật đã học. Các KNS trên được chuyển tải trong quá trình dạy học các bài đạo đức cụ thể như bài 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14. Ví dụ: Bài 1: Học tập, sinh hoạt đúng giờ. Các KNS cần giáo dục là: KN quản lí thời gian để học tập sinh hoạt đúng giờ, KN lập kế hoạch để học tập và sinh hoạt đúng giờ, KN tư duy phê phán, đánh giá hành vi sinh hoạt …. * Ngoài ra để các em có kĩ năng phòng chống tai nạn giao thông, đuối nước và các thương tích khác tôi đã giáo dục các em thông qua các tiết: An toàn 10 giao thông, dạy KNS trong môn Tự nhiên và xã hội giáo viên hướng dẫn các em biết phòng chống tai nạn giao thông và các thương tích khác bằng cách đưa ra những tình huống cho các em xử lí. Chẳng hạn : - Khi đi qua ngã tư có đèn tín hiệu gặp đèn đỏ người và xe phải như thế nào? Khi nào thì người và xe mới được phép đi? - Trẻ em dưới 8 tuổi phải đi cùng với ai khi đi trên đường phố và khi qua đường? Đi bộ qua đường em phải đi ở đâu? Khi đi bộ em đi ở đâu? Nếu đường không có vỉa hè thì thế nào? Em có nên chơi đùa trên đưòng phố không? - Có leo trèo qua dãi phân cách và chơi gần dãi phân cách không? Vì sao? Việc chơi gần đường ray xe lửa có nguy hiểm không? Nguy hiểm như thế nào? - Khi ngồi trên xe máy em phải như thế nào? Em hãy nêu cách đội mũ bảo hiểm? Nêu sự cần thiết phải đội mũ bảo hiểm? - Các em đã nhìn thấy tai nạn trên đường chưa? Theo các em vì sao tai nạn xảy ra? - Giáo dục cho các em tránh các tai nạn trên đường: không được chạy lao ra đường, không được bám bên ngoài ô tô, không được thò tay, chân, đầu ra ngoài khi đi trên tàu, xe, ghe, đò ... Như vậy, các em có thể tự lập, xử lí được những vấn đề đơn giản khi gặp phải. * Ở bài: "An toàn khi ở nhà " môn Tự nhiên và xã hội: các em được đóng vai xử lí tình huống khi có tai nạn khi ở nhà như: Cầm dao nhọn cắt quả bị chảy máu, hay trông em giúp mẹ nhưng em đến gần bếp lửa... Các nhóm sẽ thảo luận nhóm sau đó lên thể hiện, những em còn lại quan sát và có nhận xét đối với những tình huống mà các bạn mình vừa xử lí để rút ra kĩ năng cấp cứu khi có những trường hợp xấu xảy ra. Một điều nữa theo tôi cũng khá quan trọng là kĩ năng ứng xử có văn hoá cũng là lối sống lành mạnh mà các em cần phải được giáo dục. Vì thế, tôi tiếp tục: Biện pháp 3: Rèn kĩ năng sống hiệu quả qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục- vui chơi: Ngay những ngày đầu tiên khi các em vào lớp học , tôi đã phát động các phong trào: "Nói lời hay làm việc tốt" qua cách ứng xử lễ phép như biết đi thưa về trình, chào hỏi những người lớn tuổi, biết xin lỗi khi có khuyết điểm, cám ơn khi được tặng quà, vui vẻ hoà nhã với bạn bè, thầy cô và được tổng kết vào các tiết sinh hoạt lớp cuối mỗi tuần. Tôi học cách lắng nghe, tìm hiểu nguyên nhân, và dùng lời lẽ mềm mỏng bằng những tình cảm, cử chỉ yêu thương của mình khi yêu cầu điều gì đó với học sinh. Tránh hành hung, nói nặng lời để các em bớt đi tính hung hăng đối với những học sinh nghịch ngợm, mắc lỗi. 11 Để rèn kĩ năng sống có hiệu quả tôi còn vận dụng thông qua các hoạt động ngoài giờ học. Đó là qua các buổi học ngoại khóa của trường, lớp: Nhà trường tổ chức tuyên truyền, vận động tham gia qua các mô hình: diễn tiểu phẩm trong đêm văn nghệ cho học sinh tham gia; tuyên truyền bằng hình thức trực quan sinh động qua tranh ảnh, sách báo và tổ chức triển lãm ngay tại phòng truyền thống trường. Xây dựng nhiều mô hình thiết thực và hữu ích như mô hình câu lạc bộ: Vì bạn bè quanh ta, mô hình phòng chống tệ nạn xã hội, bạn giúp bạn nghèo vượt khó,... Tất cả đều gắn với nội dung phòng chống tệ nạn xã hội trong học sinh. Các mô hình này được tuyên truyền đến từng học sinh giúp các em hiểu rõ về những tác hại và cách phòng chống. Phải phòng ngừa, ngăn chặn những tệ nạn xã hội trong học sinh là điều ai cũng nhận thấy được, nhưng vấn đề là ở sự quyết tâm cao, là các biện pháp thiết thực, cụ thể và hiệu quả từ trong mỗi gia đình, mỗi nhà trường và rộng ra hơn nữa là ý thức trách nhiệm của toàn xã hội. Gia đình, nhà trường, xã hội hãy cùng nhau góp sức để các em vững tin hơn trong cuộc sống. Như vậy bằng nhiều hình thức khác nhau, tôi luôn rèn cho học sinh những kĩ năng cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học sinh trong nhận thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử lí trong mọi trường hợp. Một điều không thể thiếu để tạo sự hưng phấn, vui vẻ, phấn khởi, giúp các em có ý thức cao trong việc rèn luyện các kĩ năng tôi luôn chú ý biện pháp tiếp theo: Biện pháp 4: Động viên khen thưởng Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ năng, ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm học tôi đưa ra kế hoạch rèn luyện cho các em lớp tôi phụ trách. Trao đổi với hội phụ huynh cùng phối hợp và dành một khoảng riêng để khen thưởng kịp thời động viên các em, để tạo cho các em có một động cơ tốt trong việc duy trì thực hiện. Tôi theo dõi hằng ngày các em có biểu hiện tốt tôi ghi vào sổ, trong tiết sinh hoạt cuối tuần cho các em bình chọn những bạn thực hiện tốt sẽ được một bông hoa điểm mười. Mỗi học kỳ tôi tổng kết 2 lần (năm 4 kì) để khen thưởng những em đã đạt nhiều hoa điểm mười bằng những phần quà nhỏ như là nhãn vở, ngòi bút, bọc bóng... Các em rất vui và hãnh diện khi được tặng những bông hoa điểm tốt và những món quà của cô giáo tặng. Vì thế, các em không ngừng thi đua cố gắng thực hiện tốt để được nhận những bông hoa điểm mười mà cô giáo thưởng. Đây là một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và hiệu quả. Các em sẽ nhanh nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong cuộc sống. IV -Kết quả thực hiện Qua thực tế giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, tôi thấy học sinh đã có sự chuyển biến như tự tin trong giao tiếp, biết lắng nghe, tự nhận thức được bản thân, biết thể hiện sự cảm thông, tham gia học tập hào hứng, tích cực hơn, ... 12 Đặc biệt, các em có cố gắng vươn lên trong học tập, số học sinh có tiến bộ tăng lên rõ rệt. Qua việc thực hiện các biện pháp trên, học kì 1 và nửa đầu học kì 2 tôi thấy các em có tiến bộ rõ rệt. Đa số, các em đều có ý thức tốt trong việc rèn luyện các kĩ năng, được thể hiện rõ qua: Việc sinh hoạt hằng ngày trên lớp, trong nhiều nghi thức lời nói, các em biết vận dụng những lời nói thân thiện vào thực tế, những lời chào, cảm ơn hay xin lỗi... đã trở thành thói quen, được các em vận dụng hằng ngày. Học kì I lớp tôi được xếp vị thứ nhất dẫn đầu khối, phụ huynh học sinh rất vui mừng phấn khởi với kết quả này của lớp. Kết quả cụ thể là: Giáo dục KNS trong môn Tiếng Việt HS hình thành và phát triển kĩ năng sử dụng Tiếng việt ( nghe, nói, đọc, viết ) 30 em = 100%. Giáo dục KNS để các em học tập và giao tiếp tốt, HS trong lớp tôi hiện nay không còn em nào chưa biết đọc thông viết thạo, các em phát triển lời nói, trình bày bài trôi chảy, nói năng mạch lạt- rõ ràng, tự nhận thức về bản thân, biết nói lời cảm ơn khi nhận quà, xin lỗi khi bị mắc lỗi... Giáo dục KNS được dạy ở môn Tự nhiên và xã hội các em có khả năng tự nhận thức, tự nhìn nhận đánh giá về bản thân, biết cách tự phục vụ mình, biết bảo vệ sức khoẻ bản thân, biết phê phán đánh giá các ý kiến, biết chia sẻ trách nhiệm với bạn bè - người thân, trong giờ học các em làm việc rất tích cực, tự tin, chủ động lĩnh hội các kiến thức và kĩ năng cần đạt cụ thể là trong lớp có 30 em = 100% các em thực hiện tốt . Giáo dục KNS ở môn Đạo đức qua các tiết học học sinh hoạt động học tập rất tích cực, các em biết giao tiếp với những người xung quanh, biết đi thì chào về thì hỏi, biết cách từ chối khi bị rủ rê: cụ thể là 30 em = 100% HS thực hiện tốt các chuẩn mực đạo đức tốt. Ngoài ra giáo dục KNS còn được dạy lồng ghép vào tiết sinh hoạt chủ điểm, trong các tiết học các em hoạt động sôi nổi, ham hoạt động học tâp, vui chơi, học mà chơi - chơi mà học. PHẦN III: KẾT KUẬN, KIẾN NGHỊ 1- Kết luận: Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết của xã hội, các em không chỉ biết học giỏi về kiến thức mà còn phải được tôi luyện những kĩ năng sống qua đó tạo cho các em một môi trường lành mạnh, an toàn, tích cực, vui vẻ .Việc giáo dục kĩ năng sống ngay từ lớp nhỏ sẽ rút ngắn thời gian để trang bị cho các em vốn kiến thức, kĩ năng, giá trị sống để làm hành trang bước vào đời. Chính vì vậy, các thầy cô giáo Tiểu học luôn giữ vai trò vô cùng quan trọng. Vì thế theo tôi để làm tốt việc rèn kĩ năng sống cho học sinh, mỗi thầy cô giáo cần phải: - Xác định rõ tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. 13 - Nắm vững những đặc trưng về phương pháp và hình thức tổ chức dạy các kĩ năng giao tiếp, ứng xử vào các môn học và các hoạt động khác. - Tập trung vào việc đầu tư sọan giảng, lồng ghép kĩ năng sống vào các môn học. Luôn tạo mọi điều kiện để các em có thể bày tỏ, thể hiện mình, tham gia tốt các buổi hoạt động ngoại khóa của trường, lớp. - Điều quan trọng là mỗi thầy cô giáo phải rèn cho mình tác phong sinh hoạt chuẩn mực, phải hết lòng thương yêu, gần gũi với học sinh. Sống, học tập, lao động là những vấn đề thiết yếu mà tôi luôn ươm mầm cho thế hệ trẻ. Bởi trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, là nhân tố để cây đời mãi mãi xanh tươi. Việc chăm sóc và giáo dục trẻ em, bồi dưỡng trẻ em trở thành công dân tốt của đất nước là một công việc vô cùng quan trọng mà mỗi giáo viên chúng tôi phải cùng có trách nhiệm. Việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh luôn được xem là chức năng, nhiệm vụ thường xuyên của đội ngũ giáo viên từ nhiều năm nay. Tuy nhiên việc rèn luyện cho các em học sinh vẫn còn thiếu những biện pháp cụ thể. Hưởng ứng cuộc vận động về chủ đề năm học, qua các buổi tập huấn về việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh của phòng giáo dục, của trường bản thân tôi đã cố gắng áp dụng những kinh nghiệm, sáng tạo thêm những phương pháp mới nhằm nâng cao nhiều kĩ năng sống tốt cho học sinh từ môi trường giáo dục ở nhà trường, giáo dục và xây dựng cho các em có năng lực tốt, lối sống lành mạnh để các em có thể tự lập, tự tin hơn trong cuộc sống, đem lại niềm vui, hạnh phúc cho các em, gia đình và xã hội. Giáo dục KNS được dạy lồng ghép ở tất cả các môn học trên lớp cho nên các em đã phát huy cùng lúc rất nhiều kĩ năng sống để có thể vận dụng vào đời sống như là: Kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng xác định giá trị. Kĩ năng kiểm soát cảm xúc, kĩ năng tìm kiểm sự hỗ trợ, kĩ năng lắng nghe, kĩ năng thương lượng... nhất là kĩ năng giao tiếp đó là các em có thể bày tỏ ý kiến của bản thân theo hình thức nói, viết hoặc sử dụng ngôn ngữ cơ thể một cách phù hợp với hoàn cảnh và văn hoá, đồng thời biết lắng nghe người khác nói. Trên đây, là một số biện pháp nhỏ rèn KNS cho học sinh lớp 2 mà tôi đã áp dụng, chuyển tải trong quá trình dạy học các môn học và đã đem lại hiệu quả trong các tiết dạy. Và có thể nói KNS chính là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. KNS thúc đẩy sự phát triển cá nhân, KNS còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hôi, giúp ngăn ngừa các vấn đề xã hội và bảo vệ quyền con người. Nếu thiếu KNS của cá nhân là một nguyên nhân làm nảy sinh nhiều vấn đề trong xã hội. Mà Đảng ta đã xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Giáo dục KNS trong trường Tiểu học là việc làm không thể thiếu được mà mỗi GV phải thường xuyên làm nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy. 2. Kiến nghị: 14 - Đối với Nhà trường, nên tạo điều kiện cho các em học sinh được học ngoại khóa nhiều hơn, để các em có nhiều cơ hội thể hiện kĩ năng sống. - Đề nghị Phòng GD và Sở GD – ĐT hằng năm phải tổ chức các chuyên đề bồi dưỡng, hướng dẫn GV chúng tôi được tiếp thu các Chuyên đề rèn kĩ năng sống cho HS./. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 12 tháng 4 năm 2016 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác Người viết Phạm Thị Nghĩa 15 SKKN MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 2Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.09 KB, 12 trang ) MỤC LỤC cường giáo dục kĩ năng sống trong các môn học của Bộ cho các cấp học trong hệ thống giáo dục phổ thông. Ở Việt Nam, để thực hiện việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học. Giáo dục phổ thông đã và đang từng bước đổi mới theo hướng từ chủ yếu là trang bị kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em học sinh, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, phù hợp với từng lớp học, tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Qua đó, cho thấy tầm quan trọng và cần thiết của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phổ thông nói chung, học sinh tiểu học nói riêng. Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học nhằm đạt mục tiêu trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp; tạo cơ hội thuận lợi cho học sinh sử dụng quyền và bổn phận của mình và phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức. Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở tiểu học được tập trung chủ yếu ở 4 môn học: Tiếng Việt, Đạo đức, Khoa học và Tự nhiên xã hội. Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa nội dung giáo dục kĩ năng sống lồng ghép vào các môn học ở bậc tiểu học. Đây là một chủ trương cần thiết và đúng đắn. Tuy nhiên, để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả đòi hỏi nhiều yếu tố chứ không chỉ từ các bài giảng. Thực chất của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là nhằm trang bị cho học sinh các kĩ năng sống cơ bản là: Học để biết, Học để làm, Học để tự khẳng định mình và Học để cùng chung sống. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là một nội dung được đông đảo phụ huynh và dư luận quan tâm, bởi đây là một chương trình giáo dục hết sức cần thiết đối với học sinh. Nhiều ý kiến cho rằng, các trường học hiện nay đã quá nặng về dạy kiến thức, ít quan tâm đến việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh dẫn đến có một bộ phận học sinh trong các trường thiếu hụt hiểu biết về môi trường xung quanh, ứng xử cần thiết 2 trong cuộc sống. Điều này cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong hành vi, lối sống đạo đức của nhiều học sinh. Chính sự cần thiết ấy, tôi đã cố gắng thử nghiệm nhiều biện pháp để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh song theo bản thân tôi nhận thấy việc giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh được thể hiện rõ nét nhất trong môn Tiếng Việt. Vì thế tôi đã chọn đề tài “Các biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 2 qua môn Tiếng Việt ”. II. Mục đích, phương pháp nghiên cứu 1. Mục đích nghiên cứu - Giúp học sinh ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội; Giúp học sinh hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân; có hành vi thói quen ứng xử có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật,… - Giúp học sinh có đủ khả năng tự thích ứng với môi trường xung quanh, tự chủ, độc lập, tự tin khi giải quyết công việc. - Tìm hiểu một số đặc điểm cơ bản của kĩ năng sống được hình thành qua việc học tập môn tiếng Việt tại lớp 2G trường Tiểu học An Thạnh 1, thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. 2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp điều tra. - Phương pháp thống kê. - Phương pháp phỏng vấn. - Phương pháp phân tích tổng hợp. - Phương pháp so sánh. - Phương pháp thực hành. III. Giới hạn của đề tài Tìm hiểu về hình thức giáo dục hình thành kĩ năng sống cho học sinh thông qua lồng ghép nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong môn tiếng Việt của học sinh lớp 2G trường Tiểu học An Thạnh 1, thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. IV. Kế hoạch thực hiện - Chọn đề tài. - Lập đề cương nghiên cứu. - Đọc, thu thập tài liệu viết đề tài. - Thâm nhập thực tế. - Hoàn thành sáng kiến. 3 B. PHẦN NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận Kĩ năng sống thúc đẩy phát triển cá nhân và xã hội, có thể nói kĩ năng sống chính là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Giáo dục kĩ năng sống là yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ. Giáo dục kĩ năng sống nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông. Hiện nay việc đưa giáo dục kĩ năng sống vào nhà trường đã được thực hiện ở hầu hết các nước trên thế giới. Theo tài liệu của UNICEF, hiện nay có 153 nước đã đưa giáo dục kĩ năng sống vào nhà trường, hơn 140 nước đã thực hiện giáo dục kĩ năng sống cho học sinh với các phương thức khác nhau. Xu hướng hội nhập và phát triển không cho phép giáo dục nước ta giậm chân với những cách làm cũ, lạc hậu và trì trệ. Môn Tiếng Việt ở tiểu học có nhiệm vụ hình thành và phát triển ở học sinh kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi. Kĩ năng đặc thù, thể hiện ưu thế của tiếng Việt là kĩ năng giao tiếp, sau đó là kĩ năng nhận thức, bao gồm nhận thức thế giới xung quanh, tự nhận thức, ra quyết định, … kĩ năng sống có thể hình thành tự nhiên, học được từ những trải nghiệm của cuộc sống và do giáo dục mà có. Không phải đợi đến lúc được học kĩ năng sống một con người mới có những kĩ năng sống đầu tiên. Chính cuộc đời, những trải nghiệm, va vấp, thành công và thất bại giúp con người có được bài học quý giá về kĩ năng sống. Tuy nhiên, nếu được dạy dỗ từ sớm, con người sẽ rút ngắn thời gian học hỏi qua trải nghiệm, sẽ thành công hơn. Kĩ năng sống cần cho suốt cả cuộc đời và luôn luôn được bổ sung, nâng cấp để phù hợp với sự thay đổi của cuộc sống biến động. Người trưởng thành cũng vẫn cần học kĩ năng sống. Ở học sinh bậc tiểu học, để giúp các em có tinh thần tự học, sáng tạo và biết vận dụng linh hoạt những điều đã học vào thực tiễn, trong quá trình dạy người giáo viên phải luôn tìm tòi, sáng tạo ra những phương pháp hay. Chẳng hạn như phương pháp “học mà chơi, chơi mà học”. Giúp các em vui chơi giải trí nhằm thay đổi trạng thái của các em sau những giờ học căng thẳng và để bắt đầu một tiết học mới tốt hơn. 4 Thường xuyên đặt câu hỏi cho các em, tạo điều kiện để các em tham gia hoạt động nhóm, giải quyết vấn đề nào đó cụ thể,… trên cơ sở nền tảng là kiến thức cơ bản đã được học. Ngày nay, rèn luyện kĩ năng sống cho thế hệ trẻ mà tiêu biểu là các em học sinh là trách nhiệm chung của gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó, người giáo viên giữ vai trò quyết định. Đây cũng là một trong những nội dung của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục đã đề ra. II. Cơ sở thực tiễn Học tập là một nhu cầu thường trực của con người trong mọi thời đại. Học tập không chỉ dừng lại ở các tri thức khoa học thuần túy mà còn được hiểu là mọi tri thức về thế giới trong đó có cả những mối quan hệ, cách thức ứng xử với môi trường sống xung quanh. Kĩ năng sống là một trong những vấn đề quan trọng đối với mỗi cá nhân trong quá trình tồn tại và phát triển. Chương trình học hiện nay đang gặp phải nhiều chỉ trích do quá nặng về kiến thức hàn lâm trong khi những tri thức vận dụng cho đời sống hàng ngày bị thiếu vắng. Hơn nữa, người học đang chịu nhiều áp lực về học tập khiến cho không còn nhiều thời gian cho các hoạt động ngoại khóa, hoạt động xã hội. Điều này đã dẫn đến sự “xung đột” giữa nhận thức, thái độ và hành vi với những vấn đề xảy ra trong cuộc sống. Do vậy, kĩ năng sống với mỗi người sẽ có cách hiểu khác nhau: - Đối với học sinh: kĩ năng sống là một cái gì mơ hồ, không thiết thực, chưa có ý thức trau dồi kĩ năng sống. - Đối với giáo viên: giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là ở phân môn đạo đức, là công việc của người khác, giáo viên chỉ lo trang bị kiến thức cho học sinh. - Đối với phụ huynh: Nhiều phụ huynh cho rằng việc giáo dục con em chủ yếu là ở nhà trường, nhà trường dạy như thế nào thì các em sẽ như thế đó phụ huynh không nhất thiết phải quan tâm nhiều. Thế nhưng giáo dục kĩ năng sống trong trường học là một việc làm cần thiết, không thể thiếu, bên cạnh đó việc khắc sâu và tạo thành kĩ năng thuần thục cho học sinh là việc làm thường xuyên không ai hết chính là những người gần gũi học sinh nhất đó là giáo viên và phụ huynh học sinh. III. Thực trạng và những mâu thuẫn 5 1. Thuận lợi - Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường, tổ khối và các thầy cô trong nhà trường thường xuyên trao đổi phương pháp dạy học qua các tiết dự giờ, thao giảng, hội giảng đã giúp tôi có nhiều kinh nghiệm trong công tác giảng dạy . - Đa số học sinh có điều kiện học tập tốt, được gia đình quan tâm. - Lứa tuổi của các em học mà chơi, chơi mà học nên các em rất dễ thâm nhập tiếp thu các kiến thức một cách năng động và sáng tạo. 2. Khó khăn - Nội dung các bài học vốn đã nhiều, thời lượng lại ít nên khó lồng ghép giáo dục kĩ năng sống vào. - Học sinh cũng chưa có nhận thức đầy đủ và ý thức trau dồi kĩ năng sống, chưa tích cực chủ động tham gia các họat động trải nghiệm để tạo lập, rèn luyện kĩ năng sống. - Một số gia đình học sinh chưa thật sự kết hợp với nhà trường, có thái độ không đúng trong công tác giáo dục học sinh, chưa quan tâm đúng mức đến việc tập của con em mình. - Qua thực tế giảng dạy lớp 2, tôi thấy kĩ năng sống của học sinh chưa cao. Chỉ một số học sinh có hành vi, thói quen, kĩ năng tốt. Còn phần lớn các em có nhận xét đánh giá về sự việc nhưng chưa có thái độ và cách ứng xử, cách xưng hô chuẩn mực. Bảng số liệu các kĩ năng sống của học sinh lớp 2G. Các kĩ năng sống Tốt Bình thường Chưa tốt Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Diễn đạt trước đám đông. 9 28% 11 34% 12 38% Tương trợ nhóm khi làm việc. 8 25% 12 37,5% 12 37,5% IV. Các biện pháp giải quyết vấn đề 1. Nghiên cứu kĩ năng sống cần rèn luyện qua từng bài dạy cho học sinh. Xác định rõ nhiệm vụ của môn học và nhiệm vụ giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong môn học Dạy học sinh học tiếng Việt mà cụ thể là phân môn tập làm văn là giúp cho các em nói viết lưu loát. Học sinh phát triển vốn từ ngữ, bồi dưỡng cảm xúc tình cảm lành mạnh trong sáng, khả năng lựa chọn sắp xếp ý rõ ràng. Rèn khả năng tư duy, trí tưởng 6 tượng phong phú. Qua đó vốn sống của các em được tăng lên giúp các em tự tin, có khả năng ứng xử linh hoạt trong cuộc sống. 2. Nghiên cứu mục tiêu cần đạt của giờ học, chú trọng cung cấp kĩ năng phù hợp với từng nội dung bài dạy cụ thể là việc chuẩn bị giáo án có lồng ghép cẩn thận Khả năng giáo dục kĩ năng sống của môn Tiếng Việt không chỉ thể hiện ở nội dung môn học mà còn thể hiện qua phương pháp giảng dạy của giáo viên. Để hình thành các kiến thức và rèn luyện kĩ năng mà chương trình môn Tiếng Việt đặt ra với học sinh tiểu học, người giáo viên cần vận dụng nhiều phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh,…Thông qua các hoạt động học tập học sinh có cơ hội rèn luyện, thực hành nhiều kĩ năng sống cơ bản, cần thiết. 3. Thực hiện mô hình dạy học có 4 giai đoạn a. Giai đoạn 1: Khám phá Tìm hiểu kĩ năng hiểu biết của học sinh về những việc làm hoặc sự kiện diến ra trong cuộc sống. b. Giai đoạn 2: Kết nối Giới thiệu thông tin kiến thức và kĩ năng mới thông qua việc tạo “cầu nối” liên kết giữa cái đã biết và cái chưa biết. c. Giai đoạn 3: Vận dụng Tạo cơ hội cho người học vận dụng kiến thức rèn kĩ năng mới học vào hoàn cảnh điều kiện có ý nghĩa. d. Giai đoạn 4: Thực hành -Nâng cao mức độ vận dụng kiến thức và kĩ năng. -Điều chỉnh hiểu biết và kĩ năng còn sai lệch. -Luyện tập thực hành kĩ năng. 4. Để làm tốt việc dạy học như đã nêu trên, người giáo viện cần chuẩn bị những công việc sau: a. Chọn những kĩ năng cần thiết phù hợp địa phương: Chọn những kĩ năng phù hợp, gần gũi với học sinh. Các em có khả năng trực tiếp thực hành kĩ năng sau khi tiếp cận. VD: Thực hành kĩ năng: Giao tiếp, ứng xử lịch sự, xưng hô đúng mực trong giao tiếp với bạn. 7 b. Học sinh dự đoán các kĩ năng, yêu cầu của các kĩ năng cần đạt được sau khi học tiết học. c. Gợi ý học sinh nêu các kĩ năng thông qua bài học: Giáo viên cho học sinh nêu các yêu cầu, kĩ năng sau khi đọc trước bài học d. Hướng dẫn học sinh nắm được yêu cầu cần đạt sau bài học. Từ đó xác định các kĩ năng cần đạt: Tạo ra hứng thú, cảm xúc, lưu ý đó phải là cảm xúc riêng, thật, phải có sự liên tưởng từ đó xác định những yêu cầu của kĩ năng cần đạt. e. Giáo viên phải chuẩn bị các câu hỏi gợi ý hướng dẫn học sinh tự xác định các kĩ năng sống cần đạt: VD: Bài yêu cầu gì ? - Theo em cần phải làm gì để đạt được điều đó? - Trọng tâm bài ở chỗ nào? - Em cần có kĩ năng gì để thực hiện các vấn đề đó? - Sau khi học xong bài này em rút ra điều gì? - Em sẽ ứng dụng như thế nào, làm gì trong cuộc sống hàng ngày khi gặp trường hợp như trong bài? 5. Tổ chức cho học sinh thực hành kĩ năng sống vừa được học Tuỳ theo bài, giáo viên tổ chức cho các em hoạt động ngay tại lớp với tình huống tương tự bài học để học sinh tự tìm ra hướng giải quyết vấn đề, sau đó học sinh tự nêu các kĩ năng mà em đã ứng dụng để giải quyết vấn đề đó. Nếu không thể tổ chức thực hành được thì giáo viên hướng dẫn học sinh tự tìm hiểu các tình huống tương tự mà các em đã gặp ở cuộc sống thường ngày, ghi chép lại và nêu cách giải quyết của bản thân để hôm sau trình bày trước lớp cho các bạn nghe và bổ sung chọn cách giải quyết tốt nhất. V. Hiệu quả Nhờ việc vận dụng các phương pháp như đã trình bày, kết quả giảng dạy giáo dục rèn kĩ năng sống cho học sinh của tôi tốt hơn nhiều. Điều đáng mừng là trong các tiết học này học sinh hào hứng hơn, tích cực hoạt động hơn. Học sinh biết chăm chú lắng nghe, thực hành kĩ năng một cách tương đối chính xác. Mạnh dạn, tự tin trình bày trước lớp. Trong các hoạt động nhóm các em biết tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau cùng hoàn thành công việc được giao. Biết lắng nghe ý kiến và tôn trọng lẫn nhau Đăc biệt 8 học sinh tự tin cố gắng vươn lên trong học tập, rất nhiều học sinh tiến bộ. Số học sinh khá, giỏi tăng rõ rệt. Các kĩ năng sống Tốt Bình thường Chưa tốt Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Diễn đạt trước đám đông. 20 62,5% 10 31,3% 2 6,2% Tương trợ nhóm khi làm việc. 22 68,8% 9 28,1% 1 3,1% 9 C.KẾT LUẬN I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác “ Các biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua môn Tiếng Việt” đã góp phần giúp giáo viên có những định hướng cơ bản, những việc cần phải chuẩn bị để tiết dạy có tích hợp kĩ năng sống diễn ra một cách nhẹ nhàng qua đó giáo dục cho học sinh những kĩ năng sống cơ bản,cần thiết mà không mang tính áp đặt hay hình thức. Học sinh có ý thức hơn trong việc tự trang bị cho mình những kĩ năng sống cơ bản, gần gũi để học tập và giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi. II. Khả năng áp dụng Đề tài có thể được áp dụng với tất cả các tiết dạy có tích hợp kĩ năng sống ở môn Tiếng Việt lớp 2. III. Bài học kinh nghiệm Qua việc nghiên cứu đề tài, tôi việc giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học là một việc làm rất khó. Tuy vậy, tôi cũng tự rút ra cho mình bài học kinh nghiệm. Giáo viên cần nắm được phương pháp đặc trưng việc giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh, biết lựa chọn phương pháp, kĩ thuật dạy học phù hợp, kết hợp hình thức dạy học hợp lý nhằm phát huy tính chủ động của học sinh sẽ giúp các em phát huy cao độ trí tuệ, cảm xúc, năng động, sáng tạo trong học tập và giao tiếp. Tôi thấy đây cũng là cơ sở bước đầu khẳng định rằng: Để tổ chức giờ học dạy lồng ghép giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 2, đòi hỏi người giáo viên phải vận dụng tri thức, kĩ năng nghiệp vụ sư phạm một cách hợp lý. Đồng thời đưa ra áp dụng là hoàn toàn có cơ sở khoa học và phù hợp với thực tế giảng dạy hiện nay. Một trong những yêu cầu quan trọng để thực hiện việc lồng ghép giáo dục kĩ năng vào bài học trên lớp là giáo viên phải tìm ra được mối liên hệ giữa các kỹ thuật dạy học với nội dung rèn luyện kĩ năng sống. Chẳng hạn, với học sinh tiểu học, để hình thành nhóm kĩ năng nhận thức bao gồm: nhận thức bản thân, xây dựng kế hoạch, xác định điểm mạnh, điểm yếu của bản thân, khắc phục khó khăn để đạt mục tiêu, tư duy tích cực và tư duy sáng tạo,… giáo viên cần sáng tạo rất nhiều tình huống trong bài học để học sinh qua đó tự hình thành các kĩ năng này. Để làm tốt nhiệm vụ này, đòi hỏi ở giáo viên một tinh thần trách nhiệm và khả năng sáng tạo rất cao. 10 Giáo dục kĩ năng sống chỉ thật sự có hiệu quả khi người thầy có tâm huyết, sự kiên nhẫn và nhất là phải có thời gian. Giáo dục kĩ năng sống không phải chỉ là công việc của giáo viên, nhà trường mà của cả xã hội, cộng đồng. “Phải kết hợp cả gia đình, nhà trường và xã hội mới mong đào tạo được những học sinh phát triển toàn diện”. Nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phổ thông trong các nhà trường chính là các thầy cô giáo. Đối với cộng đồng thì đó là các bậc phụ huynh, ông bà, họ hàng thân thích, những người lớn tuổi,… Trên đây là những suy nghĩ và kinh nghiệm của bản thân về việc rèn kĩ năng sống cho học sinh qua môn Tiếng Việt. Chắc chắn đây chưa phải là giải pháp hay nhất nhưng nó sẽ giúp cho giáo viên một số kinh nghiệm để giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. HỘI ĐỒNG XÉT DUYỆT CỦA TRƯỜNG An Thạnh, ngày 15 tháng 04 năm 2012 Xếp loại:…………… Người viết CTHĐ 11 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở Tiểu học lớp 2 – Tài liệu dành cho giáo viên (NXB giáo dục Việt Nam). 2. Sách giáo viên tiếng Việt lớp 2 – tập 1, 2 (NXB giáo dục Việt Nam). 3. Sách giáo khoa tiếng Việt lớp 2 (NXB giáo dục). 4. Quyết định số 2994/QĐ-BGDĐT ngày 20 tháng 7 năm 2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 12 Rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 2 thông qua công tác chủ nhiệmNgày đăng:14/04/2019 - 16:13 Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm lớp, người giáo viên giữ một vai trò rất quan trọng. Như những người ươm mầm, muốn cây phát triển tốt thì phải có những biện pháp chăm sóc phù hợp. Cũng bởi lẽ đó người giáo viên chủ nhiệm cần tìm tòi và áp dụng những biện pháp hay, thích hợp vào thực tế lớp học của mình để các em phát triển toàn diện cả về tri thức và vốn kĩ năng năng sống. Kỹ năng sống vừa mang tính cá nhân vừa mang tính xã hội, nó cần thiết đối với học sinh cấp Tiểu học để các em có thể ứng phó một cách tự tin, tự chủ và hoàn thiện hành vi của bản thân trong giao tiếp, giải quyết các vấn đề của cuộc sống với mọi người xung quanh mang lại cho mỗi cá nhân cuộc sống thoải mái, lành mạnh về thể chất, tinh thần và các mối quan hệ xã hội khi môi trường thân thiện, dễ hoà đồng và cảm hoá lành mạnh. Hơn nữa, vấn đề giáo dục kỹ năng sống còn cần đến vốn sống, tình thương và nhân cách của người thầy. Học sinh học kiến thức ở thầy trước hết là ở tấm gương sống của người thầy. Vì vậy, để học sinh không thất vọng vì thầy thì trước hết “mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” mà ngành Giáo dục đang vận động. Làm được như vậy, tôi nghĩ rằng Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh không những không làm quá tải trong chương trình giáo dục mà còn đem đến cho người học sự hứng thú, sôi nổi và niềm vui trong học tập. Người học đã hứng thú và tự giác thì chắc chắn việc giáo dục kỹ năng sống cho người học sẽ thực chất và hữu ích, mục tiêu giáo dục toàn diện sẽ đạt được hiệu quả như mong muốn. GDKNS cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm là một những nội dung giáo dục quan trọng, có được KNS sẽ giúp các em học sinh tự tin bước vào cuộc sống tương lai. Tăng cường rèn luyện KNS cho học sinh chính là nâng chất lượng nguồn lực đáp ứng yêu cầu hội nhập hiện nay. Thấy được sự cần thiết, cấp bách của việc GDKNS cho học sinh, hơn ai hết người giáo viên chủ nhiệm phải xác định được nội dung, biện pháp trong công tác giáo dục GDKNS thông qua công tác chủ nhiệm để định hướng cho các em cách sống, cách tu dưỡng, cách rèn luyện đạo đức để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Với nhận thức đó tôi tin rằng việc giáo dục KNS cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm lớp có vai trò rất lớn trong việc nâng cao chất lượng cũng như hình thành nhân cách cho học sinh. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm khi tham gia công tác giáo dục không chỉ là nắm được những chỉ số của quản lí hành chính đơn thuần như tên, tuổi, số lượng, hoàn cảnh gia đình của học sinh, trình độ học sinh về học lực, phẩm chất đạo đức mà còn phải dự báo xu hướng, tổ chức giáo dục, dạy học phù hợp điều kiện khả năng của từng học sinh. Vì vậy trong quá trình dạy học lớp 2, tôi luôn vận dụng các biện pháp trên một cách linh hoạt. Hơn nữa, giáo dục kĩ năng sống cũng là một trong năm nội dung của phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” do Bộ Giáo dục phát động theo chỉ thị số 40/2008/CT-BGDĐT, ban hành ngày 20 tháng 07 năm 2008. Năm học 2018 -2019, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã và đang thực hiện giáo dục kĩ năng sống như một môn học chính. Để thực hiện thành công nhiệm vụ giáo dục giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, chỉ giao phó trách nhiệm cho nhà trường là không đủ mà cần có sự phối hợp hiệu quả giữa “Giáo dục nhà trường kết hợp với gia đình và ngoài xã hội”. Trong “ba ngôi giáo dục” này, giáo dục nhà trường đóng vai trò chủ đạo và vai trò của giáo viên chủ nhiệm được coi là một khâu quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến mức độ thành công của việc giáo dục kĩ năng sống. Mặc dù, hiện nay chúng ta trong thời đại Công nghệ - Thông tin, tất cả lĩnh vực phát triển như vũ bão, các em được học tập và sinh hoạt trong các môi trường khá đầy đủ và tiện nghi nên học sinh có những hiểu biết khá phong phú, ngoài ra thông qua các kênh thông tin, đặc biệt là nhờ truy cập Internet, nhưng tôi nhận thấy kỹ năng sống của các em còn nhiều hạn chế. Các em nhận thức chưa đúng về kỹ năng sống. Hầu hết các em lúng túng khi trả lời hoặc chưa biết cách xử lý các tình huống thường gặp trong cuộc sống, trong giao tiếp. Đặc biệt các em học sinh lớp 2, kỹ năng tự bảo vệ trước những vấn đề xã hội có nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe và an toàn cuộc sống như: kỹ năng nhận diện một vấn đề, biết cách xác định tình huống, biết cách từ chối, kỹ năng xử lý mâu thuẫn, kỹ năng ra quyết định, tự chăm sóc sức khỏe... còn gặp nhiều khó khăn. Để thực hiện thành công nhiệm vụ giáo dục giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, không thể không quan tâm đến công tác chủ nhiệm lớp. Bởi lẽ, thầy cô chủ nhiệm lớp có nhiều điều kiện thuận lợi để thực hiện tốt nhiệm vụ này. Vì thầy cô là người hiểu các em nhất, gần gũi với các em nhất trong thời gian các em đến trường học tập. Các em dễ tâm tình chia sẽ với thầy cô chủ nhiệm về những khó khăn mà các em gặp phải. Bên cạnh đó, thầy cô chủ nhiệm lớp còn là người được nhà trường giao trách nhiệm trực tiếp tổ chức các hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm lớp. Có thể nói, giáo viên chủ nhiệm vừa là nhà giáo dục, người quản lý, người tổ chức, người nuôi dưỡng các ước mơ, khát vọng của tập thể cũng như của từng cá nhân học sinh, vừa là người đại diện, là cầu nối giữa nhà trường, cha mẹ và các giáo viên khác trong trường với học sinh. Người giáo viên chủ nhiệm lớp vừa là thầy dạy học vừa là người cha, người mẹ và cũng có lúc phải là người bạn tốt nhất của các em. Từ đó có thể uốn nắn các em đi theo đúng qui định giáo dục trong nhà trường, có những tác động tích cực đến các em cũng như giúp các em điều chỉnh hành vi theo hướng tích cực, có lợi nhất. Vì vậy, việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm lớp ngày càng trở nên thiết yếu. Nhưng việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phải phù hợp với lứa tuổi, với đặc điểm tình hình riêng của từng lớp học, cấp học, văn hóa của từng địa phương…sao cho học sinh cảm thấy gần gũi với cuộc sống của bản thân, gia đình, nhà trường và xã hội, chứ không chỉ trên sách vở hay những lời nói suông. Thực tế, kĩ năng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Một kĩ năng có thể có những tên gọi khác nhau: Kĩ năng hợp tác còn gọi là kĩ năng làm việc nhóm; Kĩ năng kiểm soát cảm xúc còn gọi là kĩ năng xử lí cảm xúc, kĩ năng làm chủ cảm xúc, kĩ năng quản lí cảm xúc; Kĩ năng thương lượng còn gọi là kĩ năng đàm phán, kĩ năng thương thuyết. Các kĩ năng thường không tách rời mà có mối liên quan chặt chẽ với nhau. Kĩ năng không phải tự nhiên có được mà phải được hình thành trong quá trình học tâp, lĩnh hội và rèn luyện trong cuộc sống. Quá trình hình thành KNS diễn ra trong và ngoài hệ thống giáo dục. KNS vừa mang tính chất cá nhân vừa mang tính xã hội. KNS mang tính cá nhân vì đó là khả năng của cá nhân. KNS mang tính xã hội vì KNS phụ thuộc vào các giai đoạn phát triển lịch sử xã hội, chịu ảnh hưởng của truyền thống và văn hóa của giai đình, cộng đồng, dân tộc. * Thực trạng học sinh lớp 2 còn thiếu và yếu về các kĩ năng sống cơ bản: Các em hay nói chuyện, làm việc riêng trong giờ học, chưa thật sự tập trung, rất ngại tiếp xúc với thầy cô, ít tham gia các hoạt động học tập. Sự tập trung chú ý của học sinh ở lớp chưa cao, thiếu bền vững, các em rất ngại tham gia các hoạt động nhóm, ngại suy nghĩ để tìm ra hướng giải quyết vấn đề. Khó khăn nhất là trong giao tiếp với bạn bè các em có thói quen xưng hô “tao, mày, nó,...”. Học sinh nam thì thích đi chân đất, hay văng tục, đánh nhau, thiếu kiểm soát trong ngôn ngữ khi giao tiếp với bạn. Còn học sinh nữ thì thích chơi theo nhóm, có sự phân biệt trong mối quan hệ bạn bè, các em còn nổi cáu khi bạn chọc ghẹo... - Một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc học tập cũng như giáo dục đạo đức của con em mình. - Địa bàn rộng, một số học sinh nhà xa trường, xa nhau nên công tác phối kết hợp giữa gia đình và giáo viên còn hạn chế. - Mức độ nhận thức chưa đồng đều. Các kĩ năng cơ bản của các em ở còn thấp ở nhiều mức độ khác nhau. Học sinh nóng vội, chưa thực sự chú ý lắng nghe và làm việc theo nhóm, điều này làm cho các em không thể tập trung lĩnh hội những điều giáo viên dạy. Vì vậy, giáo viên phải tốn rất nhiều thời gian đầu tư, vận dụng và linh hoạt thay đổi nhiều biện pháp để giúp học sinh có được những kĩ năng sống cơ bản ở môi trường tiểu học mà cụ thể hơn là ở lớp 2, làm nền móng vững chắc cho các em bước tiếp trong môi trường giáo dục cao hơn. - Đặc biệt có một số học sinh thuộc diện học sinh khuyết tật về trí tuệ nhưng lại rất nghịch ngợm và ương bướng, tính cách thất thường, khó kiểm soát về hành vi cũng như lời nói. * Nguyên nhân: - Về giáo viên: Qua dùng phiếu thăm dò, khảo sát thực tế cho thấy một số giáo viên lúng túng cả về nội dung, biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh. Nhận thức của giáo viên chưa rõ, chưa đầy đủ về việc rèn kĩ năng sống cho học sinh là rèn những kĩ năng gì. Đặc biệt là nội dung các kĩ năng theo từng khối lớp; vì nhận thức chưa đủ, chưa rõ nên không thể tìm ra được biện pháp, hình thức tổ chức hữu hiệu để rèn kĩ năng sống cho học sinh. Đa số giáo viên lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm nhưng việc đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn gặp nhiều khó khăn; giáo viên trẻ tuổi ít hơn, năng động, sáng tạo nhưng lại khó trong công tác bồi dưỡng nên thường tập chung vào chuyên môn nhiều hơn. - Về học sinh: Các em hay nói chuyện, làm việc riêng trong giờ học, chưa thật sự tập trung, rất ngại tiếp xúc với thầy cô, ít tham gia các hoạt động học tập. Sự tập trung chú ý của học sinh ở lớp chưa cao, thiếu bền vững, các em rất ngại tham gia các hoạt động nhóm, ngại suy nghĩ để tìm ra hướng giải quyết vấn đề. Khó khăn nhất là trong giao tiếp với bạn bè các em có thói quen xưng hô “tao, mày, nó,...”. Học sinh nam thì thích đi chân đất, hay văng tục, đánh nhau, thiếu kiểm soát trong ngôn ngữ khi giao tiếp với bạn. Còn học sinh nữ thì thích chơi theo nhóm, có sự phân biệt trong mối quan hệ bạn bè, các em còn nổi cáu khi bạn chọc ghẹo... Nhiều gia đình học sinh có điều kiện kinh tế khó khăn, nhà xa trường, hơn 70% phụ huynh trong lớp là lao động chân tay, có 4 em thuộc diện hộ nghèo và 3 cận nghèo. 2 em có hoàn cảnh khó khăn (bố mẹ bỏ nhau, bố đi làm xa phải ở nhà với bà nội; 1 em thì mẹ cũng bị bệnh tâm thần không có khả năng lao động, 2 mẹ con ở với bác), và 4 em cha mẹ không có công việc ổn định. - Về phụ huynh: Nhiều phụ huynh luôn nóng vội trong việc dạy con; họ chỉ chú trọng đến việc con mình về nhà mà chưa đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm Toán thì lo lắng một cách thái quá! Ngoài ra, một trở ngại nữa là phụ huynh trong lớp có một số bố mẹ thì quá nuông chiều. Đồng thời lại chiều chuộng, cung phụng con cái khiến trẻ không có kĩ năng tự phục vụ bản thân. Ngược lại, một số phụ huynh vì bận nhiều công việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động cần thiết... Từ những khó khăn trên là giáo viên chủ nhiệm lớp 2, bản thân tôi đã nghĩ ngay đến việc phải tích cực giáo dục kĩ năng sống cho các em. Vì thế tôi luôn tìm tòi, vận dụng và thay đổi các biện pháp trong công tác chủ nhiệm. Với mong muốn được hiểu, gần gũi, giúp đỡ, định hướng kịp thời cho các em, được góp một phần kinh nghiệm nhỏ bé của mình vào việc giáo dục nhân cách, giáo dục ý thức kỷ luật, nề nếp, hình thành các kĩ năng sống cần thiết cho các em thông qua công tác chủ nhiệm lớp 2. Các biện pháp để khắc phục những khó khăn trên như sau: - Biện pháp 1: Nhận thức sâu sắc về sự cần thiết của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 2. SKKN: Một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 2 thông qua các môn họcMục tiêu của đề tài nhằm nghiên cứu nội dung chương trình, mục tiêu các môn học của lớp 2, mối quan hệ giữa các nội dung kiến thức các hiện tượng, sự vật với cuộc sống xung quanh hàng ngày. Nghiên cứu phương pháp dạy học tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua các hoạt động học tập. Từ đó tìm ra phương pháp dạy học để giúp học sinh kết hợp kiến thức đã học vận dụng vào các hoạt động thực tế. | Trong những năm gần đây, toàn ngành đã chú trọng đến công tác đổi mới nội dung, phương pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển mà xã hội đặt ra. Một số giáo viên còn chú trọng vào việc trang bị kiến thức cho học sinh mà xem nhẹ việc rèn luyện kĩ năng ứng xử, kĩ năng thực hành cho học sinh. Còn một số quan điểm lệch lạc chỉ nên tập trung vào việc học các môn học chính thức trong chương trình mà xem nhẹ công tác giáo dục cho các em ý thức công dân, tinh thần đoàn kết và các kĩ năng sống thông qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Điều này đã dẫn đến tình trạng nhiều học sinh rụt rè, nhút nhát trước đám đông. Các em không thể trình bày được những ý kiến của mình trước tập thể. Có em còn không dám đứng trước lớp để trình bày một bài hát, kể một câu chuyện hoặc trình bày một vấn đề mà mình quan tâm, nhất là đối với các em là học sinh người dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, không phải các em không biết, không phải các em không muốn, cũng không phải các em không thích mà nguyên nhân chính là các em chưa được chỉ dẫn, chưa được trải nghiệm, chưa được rèn luyện, Vấn đề được đặt ra là: môn học nào giúp cho các em có được những trải nghiệm đó và ai là người đưa các em vào các hoạt động đó để các em rèn luyện ?Thiện Luân 1230 32 doc Báo lỗi Upload Tải xuống
đang nạp các trang xem trước Không thể tạo bản xem trước, hãy bấm tải xuống Tải xuống TÀI LIỆU LIÊN QUAN SKKN: Cách viết sáng kiến kinh nghiệm9 2373 120 Sáng kiến kinh nghiệm THCS: Tích hợp kiến thức các môn Địa lý, Lịch sử, Hóa học, Sinh học, Ngữ Văn, GDCD, Tin học, Kĩ năng vào giảng dạy môn Tiếng Anh 8 bài 11: Travelling around Viet Nam, phần Read.34 378 11 Sáng kiến kinh nghiệm: Làm thế nào để vận dụng và thiết kế trò chơi học tập tiếng việt lớp 5 đạt hiệu quả27 1223 96 Sáng kiến kinh nghiệm: Dạy học sinh sửa lỗi sai đặc trưng khi viết chính tả ở lớp 19 1300 116 Sáng kiến kinh nghiệm: Tạo môi trường cho trẻ làm quen văn học - chữ viết thông qua phòng thư viện đồ chơi – góc sách7 577 29 Đề cương viết sáng kiến kinh nghiệm3 3590 51 Bài giảng Hướng dẫn viết cải tiến sáng kiến kinh nghiệm33 495 21 Sáng kiến kinh nghiệm: Ứng dụng CNTT trong việc giảng dạy môn TNXH lớp 328 1588 118 Sáng kiến kinh nghiệm coi trọng tính chất thực hành trong giờ Tập viết lớp 214 529 28 Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Phát triển năng lực cho học sinh bằng cách tổ chức một số hoạt động trải nghiệm sáng tạo qua văn bản Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy - Ngữ văn 10, ban cơ bản50 637 44 TÀI LIỆU XEM NHIỀU Thiết kế kế hoạch bài học môn Toán theo định hướng phát triển năng lực học sinh13 29206 1382 Phân tích và làm rõ ý kiến sau: “Bài thơ Tự tình II vừa nói lên bi kịch duyên phận vừa cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương”3 18511 191 31 Câu hỏi ôn tập môn Chủ nghĩa xã hội khoa học25 16819 3467 Tiểu luận Tình huống xử lý sai phạm trong thanh toán công tác phí lưu động20 15283 1378 Tiểu luận: Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam16 13483 2164 100 câu hỏi trắc nghiệm Triết học Mác-Lênin kèm đáp án14 13257 2421 Ebook Ôn luyện tiếng Anh 9 có đáp án: Phần 2 - Mai Lan Hương, Hà Thanh Uyên37 12294 2734 Đề thi và Đáp án môn Tiếng Việt thực hành - ĐH SPKT TP.HCM3 9571 182 Mẫu đơn thông tin ứng viên ngân hàng VIB8 9424 1730 Bảng biến đổi Laplace và biến đổi Z1 9323 336 TỪ KHÓA LIÊN QUAN
TÀI LIỆU MỚI ĐĂNG Comparison of DNA standards for real-time-pcr based quantification of lactobacillus acidophilus in dairy products4 31 1 18-02-2022 Đề kiểm tra giữa học kì 1 môn Sinh học lớp 12 năm 2021-2022 - Trường THPT Lương Ngọc Quyến4 37 1 18-02-2022 Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu chế tạo, tính chất điện hóa và định hướng ứng dụng của lớp mạ điện hóa niken trên nền các chất dẫn điện khác nhau76 42 1 18-02-2022 Giáo trình Khí cụ điện hạ thế (Nghề Điện dân dụng - Trình độ Cao đẳng): Phần 1 - CĐ GTVT Trung ương I70 31 1 18-02-2022 Increased circulating microRNA-122 is associated with mortality and acute liver injury in the acute respiratory distress syndrome12 12 1 18-02-2022 Bài giảng Thực tiễn lâm sàng sử dụng Surfactant ít xâm lấn (LISA) cho trẻ non tháng bệnh màng trong: Thách thức - giới hạn16 59 1 18-02-2022 Intraarterial contrast-enhanced ultrasound to predict the short-term tumour response of hepatocellular carcinoma to Transarterial chemoembolization with Lipiodol12 27 1 18-02-2022 Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp chiến lược xoá đói giảm nghèo phát triển kinh tế bền vững trong vùng dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh giai đoạn 2006-201568 31 2 18-02-2022 Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp marketing cho dịch vụ thẻ nội địa tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Tỉnh Quảng Ngãi26 34 1 18-02-2022 Phát triển nguồn lực trí thức nữ trong bối cảnh Công nghiệp 4.0 tại Việt Nam13 41 1 18-02-2022 Ebook Dược liệu quý Đông trùng hạ thảo: Phần 253 66 1 18-02-2022 Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Nâng cao năng lực cạnh tranh Tỉnh Tiền Giang75 54 1 18-02-2022 Luận văn Thạc sĩ Báo chí học: Báo chí với vấn đề giáo dục sức khỏe cộng đồng hiện nay152 59 2 18-02-2022 Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến dự phòng rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam98 34 1 18-02-2022 Proliferation of female inflorescences explants of date palm5 19 1 18-02-2022 Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Đánh giá tác động của đào tạo nghề đến lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh Kiên Giang73 71 1 18-02-2022 Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu thành phần loài và đặc điểm sinh vật học một số loài bệnh hại trên cây thầu dầu làm cơ sở cho việc đề xuất biện pháp phòng trừ theo nguyên tắc quản lý vật gây hại tổng hợp (IPM) tại vườn ươm thầu dầu Xuân Mai, Hà Nội87 16 1 18-02-2022 Ứng dụng rọ đá vỏ lưới nhựa chống xói bờ kè trong môi trường xâm thực5 54 1 18-02-2022 Bài giảng Học sâu và ứng dụng: Bài 10 - ĐH Bách khoa Hà Nội49 53 3 18-02-2022 Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Đánh giá tác động của nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đối với tăng trưởng kinh tế và phúc lợi của người dân tỉnh Hậu Giang giai đoạn 2004 - 2014110 31 1 18-02-2022 TÀI LIỆU HOT Phân tích và làm rõ ý kiến sau: “Bài thơ Tự tình II vừa nói lên bi kịch duyên phận vừa cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương”3 18511 191 Thiết kế kế hoạch bài học môn Toán theo định hướng phát triển năng lực học sinh13 29206 1382 CẬP NHẬT KINH TẾ VĨ MÔ VIỆT NAM 6 tháng đầu năm 20203 1275 72 Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam năm 2020580 3382 334 BÀI GIẢNG DỰNG HÌNH SKETCHUP 2020 BIÊN SOẠN : GV.KTS PHAN THỨC62 4032 1 Việt Nam 2035 hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ584 1740 67 GIÁO TRÌNH TIẾNG ANH ENG BREAKING171 3616 596 Quản trị khủng hoảng trong quan hệ công chúng2 1555 69 Báo cáo thực tập chuyên ngành: Nghiên cứu, thiết kế, mô phỏng robot công nghiệp51 2089 131 Đề tài “ Cân đối ngân sách nhà nước- thực trạng và hướng hoàn thiện”53 2971 161 Địa chỉ : Số 38 Trần Thái Tông - Cầu Giấy - Hà nội - Việt Nam Website : tailieuxanh.com Email : TailieuXANH.com là thư viện tài liệu trực tuyến, nơi chia sẽ trao đổi hàng triệu tài liệu như luận văn đồ án, sách, giáo trình, đề thi, truyện đọc.v.v.. Với kho tài liệu khủng lên đến hàng triệu tài liệu sẽ được miễn phí tới 99,99% cho các thành viên. Chúng tôi không chịu trách nhiệm liên quan đến các vấn đề bản quyền nội dung tài liệu được thành viên tự nguyện đăng tải lên và các cộng tác viên gửi về. Từ khóa tìm kiếm: THỊ TRƯỜNG NGÀNH HÀNG | Nông nghiệp, thực phẩm | Gạo | Rau hoa quả | Nông sản khác | Sữa và sản phẩm | Thịt và sản phẩm | Dầu thực vật | Thủy sản | Thức ăn chăn nuôi, vật tư nông nghiệp | CÔNG NGHIỆP | Dệt may | Dược phẩm, Thiết bị y tế | Máy móc, thiết bị, phụ tùng | Nhựa - Hóa chất | Phân bón | Sản phẩm gỗ, Hàng thủ công mỹ nghệ | Sắt, thép | Ô tô và linh kiện | Xăng dầu | DỊCH VỤ | Logistics | Tài chính-Ngân hàng | NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG | Hoa Kỳ | Nhật Bản | Trung Quốc | Hàn Quốc | Châu Âu | ASEAN | BẢN TIN | Bản tin Thị trường hàng ngày | Bản tin Thị trường và dự báo tháng | Bản tin Thị trường giá cả vật tư | luận văn | giáo trình | luận văn | tiến sĩ | Luận văn | thạc sĩ | kế toán | kiểm toán | quản trị kinh doanh | kinh tế tài chính | ngân hàng | ngân hàng luận văn | kế toán | luận văn kinh tế | công nghệ thông tin | lập trình | quản trị | mạng hệ điều hành | toán học | hóa học | vật lý | công nghệ | văn học | kỹ năng mềm | đề thi | ebook | ngoại ngữ | tiếng pháp | tiếng hàn | tiếng nhật | tiếng nga | tiếng anh | luận văn | ngân hàng | tiểu luận | tiểu thuyết | truyện đọc | ngôn tình | tài liệu | Văn mẫu | Đã phát hiện trình chặn quảng cáo AdBlock Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này. Bấm nút này sau khi tắt/tạm dừng AdBlock |