Luật sư được tham gia từ giai đoạn nào năm 2024

Qua khảm sát, Luật sư 11 nhận thấy có nhiều anh, chị, em khách hàng có cùng thắc mắc là Luật sư bào chữa sẽ được tham gia từ giai đoạn nào của vụ án hình sự? Bài viết dưới đây sẽ trả lời cho câu hỏi này.

Luật sư bào chữa được tham gia từ giai đoạn nào của vụ án hình sự?

Theo Điều 74 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng, thì:

Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.

Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.

Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

Theo đó, tùy vào từng trường hợp cụ thể mà Luật sư bào chữa sẽ được tham gia từ khi khởi tố bị can; từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.

Ngoài ra, khi cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Luật sư bào chữa sẽ tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

Kể từ thời điểm đăng ký bào chữa bao lâu thì Luật sư được cấp giấy bào chữa?

Theo khoản 4 Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định thủ tục đăng ký bào chữa, cụ thể như sau:

“4. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ và thấy không thuộc trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa quy định tại khoản 5 Điều này thì vào sổ đăng ký bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa, cơ sở giam giữ và lưu giấy tờ liên quan đến việc đăng ký bào chữa vào hồ sơ vụ án; nếu xét thấy không đủ điều kiện thì từ chối việc đăng ký bào chữa và phải nêu rõ lý do bằng văn bản.”

Với quy định này thì trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ và thấy nếu không thuộc trường hợp từ chối đăng ký bào chữa thì vào sổ đăng ký bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa, cơ sở giam giữ và lưu giấy tờ liên quan đến việc đăng ký bào chữa vào hồ sơ vụ án.

Nếu xét thấy không đủ điều kiện thì từ chối việc đăng ký bào chữa và phải nêu rõ lý do bằng văn bản.

Trường hợp nào cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định Luật sư bào chữa?

Theo Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định chỉ định người bào chữa, thì:

“1. Trong các trường hợp sau đây nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ:

  1. Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình;
  1. Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi.

Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải yêu cầu hoặc đề nghị các tổ chức sau đây cử người bào chữa cho các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này:

  1. Đoàn luật sư phân công tổ chức hành nghề luật sư cử người bào chữa;
  1. Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cử Trợ giúp viên pháp lý, luật sư bào chữa cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lý;
  1. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận cử bào chữa viên nhân dân bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình.”

Như vậy, nếu rơi vào những trường hợp nêu trên nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời Luật sư bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định Luật sư bào chữa cho họ.

Trong tố tụng hình sự, luật sư có thể tham gia vào nhiều giai đoạn với tư cách khác nhau. Cụ thể, luật sư được tham gia từ giai đoạn nào của vụ án?

Luật sư có thể tham gia với tư cách người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, của bị hại, đương sự. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết này xin phép chỉ đề cập tới khía cạnh luật sư bào chữa.

Luật sư bào chữa tham gia từ giai đoạn điều tra

Theo , thời điểm luật sư bào chữa tham gia tố tụng là từ khi khởi tố bị can.

Trừ trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.

Trong đó, khoản 2 Điều 109 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định, bắt người gồm:

  • Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;
  • Bắt người phạm tội quả tang;
  • Bắt người đang bị truy nã;
  • Bắt bị can, bị cáo để tạm giam;
  • Bắt người bị yêu cầu dẫn độ

Còn đối với trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

Như vậy, sớm nhất, luật sư có thể tham gia tố tụng ngay từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở cơ quan điều tra nếu được mời/lựa chọn bào chữa và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa.

Trong giai đoạn này, người bào chữa sẽ do người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ mời/lựa chọn.

Luật sư được tham gia từ giai đoạn nào năm 2024

Luật sư được tham gia từ giai đoạn nào của vụ án hình sự? (Ảnh minh họa)

Các trường hợp bắt buộc phải có luật sư

Luật sư bào chữa tham gia vào vụ án hình sự khi được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền chỉ định (khoản 1 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13).

Theo đó, sẽ có luật sư được mời hoặc luật sư chỉ định. Và trong các trường hợp sau đây, nếu không mời được người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền phải chỉ định người bào chữa:

- Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình;

- Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi.

Theo đó, trong 2 trường hợp nêu trên bắt buộc phải có người bào chữa nếu không mời được thì phải chỉ định người bào chữa. Sự tham gia của người bào chữa vào những vụ án này không phụ thuộc vào ý chí của bị can, bị cáo.