Lớp 12 năm nay sinh năm bao nhiêu năm 2024

Trung học phổ thông [THPT] hay còn gọi là phổ thông trung học [PTTH], cấp 3 là một bậc trong hệ thống giáo dục ở Việt Nam hiện nay, cao hơn tiểu học [cấp 1], trung học cơ sở [cấp 2] và thấp hơn cao đẳng hoặc đại học. Để tốt nghiệp bậc học này, học sinh phải vượt qua Kỳ thi trung học phổ thông quốc gia.

Khái niệm[sửa | sửa mã nguồn]

Trường phổ thông trung học hay còn được gọi là trường trung học phổ thông, là một loại hình đào tạo chính quy ở Việt Nam, dành cho lứa tuổi từ 15 tới 18 không kể một số trường hợp đặc biệt. Nó gồm các khối học: lớp 10 [năm thứ nhất], lớp 11 [năm thứ hai], lớp 12 [năm thứ ba]. Sau khi học xong lớp 12, học sinh phải trải qua Kỳ thi tốt nghiệp THPT.

Trường trung học phổ thông được lập tại các địa phương trên cả nước. Người đứng đầu một ngôi trường được gọi là "Hiệu trưởng". Trường được sự quản lý trực tiếp của Sở Giáo dục và Đào tạo [tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương], tức là Trường Trung học phổ thông ngang với Phòng Giáo dục quận huyện. Quy chế hoạt động do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.

Các môn học[sửa | sửa mã nguồn]

Trước năm học 2023⁠–⁠2024[sửa | sửa mã nguồn]

Học sinh học 13 môn bắt buộc và một môn nghề tự chọn ở lớp 11:

  1. Toán
  2. Vật lí
  3. Hóa học
  4. Sinh học
  5. Tin học
  6. Ngữ văn
  7. Lịch sử
  8. Địa lí
  9. Ngoại ngữ: Tiếng Anh, Tiếng Nga, Tiếng Pháp, Tiếng Trung Quốc, Tiếng Nhật, Tiếng Đức,...
  10. Giáo dục công dân
  11. Công nghệ
  12. Thể dục
  13. Giáo dục Quốc phòng - An ninh

Từ năm học 2022–2023[sửa | sửa mã nguồn]

Học sinh học 8 môn bắt buộc, bao gồm:

  1. Ngữ văn
  2. Toán
  3. Ngoại ngữ 1
  4. Lịch sử
  5. Giáo dục thể chất
  6. Giáo dục Quốc phòng –⁠ An ninh
  7. Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp
  8. Nội dung giáo dục địa phương

Ngoài 8 môn học bắt buộc, học sinh phải đăng kí học thêm 4 môn học từ ba nhóm, bao gồm:

  1. Khoa học tự nhiên [Vật lí, Hóa học, Sinh học]
  2. Khoa học xã hội [Lịch sử, Địa lí, Giáo dục kinh tế và pháp luật]
  3. Công nghệ và nghệ thuật [Công nghệ, Tin học, Nghệ thuật]

Ngoài ra, học sinh còn có thể lựa chọn học thêm hai môn Tiếng dân tộc thiểu số và Ngoại ngữ 2 [không bắt buộc].

Theo luật phổ cập giáo dục của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì độ tuổi đi học được tính như sau:

Cấp 1: Tiểu học cơ sở

  • 6 tuổi học lớp 1
  • 7 tuổi học lớp 2
  • 8 tuổi học lớp 3
  • 9 tuổi học lớp 4
  • 10 tuổi học lớp 5

Cấp 2: Trung học cơ sở

  • 11 tuổi học lớp 6
  • 12 tuổi học lớp 7
  • 13 tuổi học lớp 8
  • 14 tuổi học lớp 9

Cấp 3: Trung học phổ thông

  • 15 tuổi học lớp 10
  • 16 tuổi học lớp 11
  • 17 tuổi học lớp 12

Ngoài ra, cũng có thể áp dụng công thức tính năm sinh theo lớp như sau:

Năm sinh = Năm hiện tại - [ Tuổi tương ứng với lớp + 5]

Ví dụ: Lớp 11 sinh năm bao nhiêu? 2020 - [ 16 + 5 ] = 1999

Năm học 2022-2023 chỉ còn khoảng hơn 1 tuần nữa là các nhà trường sẽ tiến hành tổng kết năm học và những lớp đang học chương trình 2006 có nhiều lợi thế vì học sinh không thể ở lại lớp vì đây là thời điểm chuyển đổi chương trình học tập.

Đó là học sinh các lớp 4, 8, 11 của năm học 2022-2023 nếu học yếu kém cũng không thể ở lại lớp vì sang năm các lớp này học chương trình 2018 sẽ khác hoàn toàn với chương trình năm học này. Nếu ở lại, các em sẽ học chương trình nào?

Ràng buộc như vậy, sẽ “giúp” cho học sinh đang học chương trình 2006 năm nay được hưởng lợi.

Các môn học, hoạt động giáo dục chương trình 2018 khác hoàn toàn với chương trình 2006

[Ảnh minh họa trên giaoduc.net.vn]

Tính đến năm học 2022-2023, Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đã được ngành giáo dục triển khai đến các lớp 1,2,3,6,7,10 đối với cả 3 cấp học phổ thông. Các lớp đang học chương trình 2006 bao gồm: lớp 4,5,8,9,11,12.

Khi kết thúc năm học, các trường sẽ tổ chức kiểm tra học kỳ và tính điểm trung bình môn cả năm cho học trò để xếp loại học lực, hạnh kiểm và ghi vào học bạ. Những em có học lực Giỏi, Khá thì khen thưởng cuối năm.

Tuy nhiên, là một giáo viên đang dạy phổ thông, người viết cho rằng, sẽ rất khó có chuyện học sinh lớp 4,5,8,9,11,12 năm học 2022-2023 phải ở lại lớp bởi một số nguyên nhân.

Thứ nhất: học sinh những lớp 4,8,11 trong năm nay- đang học chương trình 2006, nếu ở lại lớp thì không thể xếp các em vào học ở các lớp 4,8,11 ở năm học sau- chương trình 2018 vì chương trình học khác nhau; cách đánh giá, xếp loại học lực khác nhau hoàn toàn so với hiện nay.

Đó là chương trình 2018 có nhiều môn học mới, hoạt động giáo dục mới, tổ hợp mới, mục tiêu giáo dục mới, nó khác xa với chương trình 2006 nên học sinh ở lại thì khập khiễng chương trình học mà học bạ giữa 2 chương trình cũng đang được thiết kế khác nhau.

Cách đánh giá, xếp loại học lực theo chương trình 2018 là đánh giá phẩm chất, năng lực của học trò nên cách các mức xếp loại học lực cũng khác nhau, tên gọi cũng khác nhau. Vì thế, sẽ rất khó có trường hợp em nào đang học lớp 4, lớp 8 và lớp 11 trong năm học 2022-2023 bị giáo viên cho ở lại lớp.

Thứ hai: đối với học sinh lớp 5, lớp 9 và lớp 12 thì rơi vào trường hợp học sinh cuối cấp. Thực tế, học sinh lớp 5 thầy cô sẽ nương tay để các em xét tuyển vào lớp 6. Thực tế, bảng điểm học sinh lớp 5 thường rất cao và luôn khiến giáo viên cấp Trung học cơ sở bất ngờ.

Học sinh lớp 9 thì nhà trường cũng đều có chủ trương để các em tốt nghiệp Trung học cơ sở hết. Những em nào có học lực tốt hơn thì thi tuyển sinh 10, những em yếu hơn thì có thể học nghề, học ở các Trung tâm giáo dục thường xuyên…

Quan điểm của các trường lâu nay là nếu không xét tốt nghiệp cho các em thì cũng tội.

Hơn nữa, việc xét tốt nghiệp hiện nay cũng đơn giản, chỉ cần các môn học có điểm trung bình môn từ 3,5 trở lên, trong đó có 1 trong 3 môn Toán, Văn, Tiếng Anh trên 5,0 điểm là các em đủ điều kiện tốt nghiệp. Vì thế, gần như trường nào cũng 100% tốt nghiệp.

Học sinh lớp 12 thì càng đơn giản hơn vì cho dù các em phải trải qua 1 kỳ thi tốt nghiệp nhưng việc tính điểm tốt nghiệp bằng cả điểm thi và điểm học bạ nên cửa rớt cũng rất hiếm xảy ra.

Chỉ có những trường hợp cá biệt thì mới có thể rớt tốt nghiệp vì dù sao học sinh Trung học phổ thông cũng đã trải qua kỳ thi tuyển sinh 10 nên đã có sự sàng lọc từ đầu cấp học.

Ngoài 2 nguyên nhân chính đã nêu ở trên thì còn rất nhiều nguyên nhân khác nữa. Vì thế, lâu nay chuyện học sinh ở lại lớp cũng không nhiều chứ chưa nói là thời điểm chuyển đổi chương trình học như hiện nay.

Bởi lẽ, ngay từ ngày đại hội viên chức đầu năm học ở các đơn vị, Ban giám hiệu nhà trường đã giao chỉ tiêu học lực năm học cho các tổ chuyên môn. Tổ chuyên môn giao chỉ tiêu cho giáo viên và gần như giáo viên phải tuân thủ theo.

Nếu giáo viên tổng kết cho học sinh thấp hơn chỉ tiêu được giao, việc đầu tiên là giáo viên không được đánh giá viên chức ở mức Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; không được xét thi đua ở các danh hiệu cao như: Chiến sĩ thi đua; Bằng khen các cấp- cho dù nhiều phong trào khác có thành tích vì bị khống chế hiệu quả giảng dạy.

Đặc biệt, cho học sinh điểm yếu mà không may học sinh đó không đủ điều kiện để lên lớp thì giáo viên bộ môn phải ôn kiểm tra lại trong hè cho học trò.

Điều này cũng đồng nghĩa, giáo viên phải làm kế hoạch, đề cương, đề kiểm tra, ôn thêm mấy tuần trong hè cho học sinh. Những công việc này, không mấy giáo viên thích thú nên họ thường “chủ động” để học sinh đủ ngưỡng an toàn để lên lớp.

Bây giờ, trường nào cũng thực hiện phần mềm điểm điện tử, vì thế khi môn mình dạy có học sinh nào điểm yếu thì giáo viên sẽ “nhìn sang” các môn khác, đặc biệt là 3 môn Toán, Văn, Anh để đưa ra quyết định cuối cùng cho mình.

Hơn nữa, theo văn bản hướng dẫn đánh giá, xếp loại hiện nay của ngành giáo dục thì học sinh có nhiều cột điểm khác nhau. Điểm định kỳ thấp thì có điểm thường xuyên kéo lại nên rất hiếm trường hợp học sinh bị điểm yếu.

Những môn quan trọng, khống chế việc xếp loại học lực như: Văn, Toán, Anh thì học sinh thường xuyên đi học thêm ở nhà thầy cô. Những môn còn lại thì điểm thường cao chót vót. Những môn đánh giá bằng nhận xét thì tất cả đều xếp loại Đạt, người viết chưa thấy có học sinh nào Chưa đạt trừ các trường hợp cá biệt.

Chủ Đề