Từ Samarkand, nghề làm giấy lan rộng đến Baghdad vào thế kỷ 8 sau Công nguyên và đến Damascus, Ai Cập và Maroc vào thế kỷ 10. Nhiều nguyên liệu của Trung Quốc không được cung cấp cho các nhà sản xuất giấy ở Trung Đông, họ sử dụng lanh và các loại sợi thay thế khác, cũng như một chiếc máy ba chân chạy bằng sức người để chuẩn bị bột giấy.
Phải mất gần 500 năm, nghề làm giấy mới đến được châu Âu từ Samarkand. Mặc dù việc xuất khẩu giấy từ Trung Đông sang Byzantium và các khu vực khác của châu Âu đã bắt đầu vào thế kỷ 10 và 11, nghề thủ công này dường như không được thành lập ở Tây Ban Nha và Ý cho đến thế kỷ 12. Giấy ban đầu bị thế giới Cơ đốc giáo không cho là biểu hiện của văn hóa Hồi giáo, và một sắc lệnh năm 1221 từ Hoàng đế La Mã Thần thánh Frederick II tuyên bố tất cả các tài liệu chính thức được viết trên giấy là không hợp lệ. Tuy nhiên, sự nổi lên của báo in vào giữa những năm 1400 đã sớm thay đổi thái độ của châu Âu đối với giấy.
Joe Biden là ai? Là người có tầm ảnh hưởng thế giới?
Mặc dù người thợ thủ công được miêu tả trong bức tượng của chúng ta sẽ khó nhận ra thiết bị của một nhà máy giấy hiện đại, nhưng các quy trình mà họ sử dụng để làm ra giấy không khác nhiều so với quy trình ngày nay. Chuẩn bị cổ phiếu, tạo thành mạng giấy, làm khô tờ giấy, và sơn phủ và phụ gia. Mặc dù nhiều cải tiến trong công nghệ đã được thực hiện sau khi du nhập vào châu Âu, phần mô tả sau đây sẽ cung cấp một số ấn tượng về các hoạt động tạo nên nghề thủ công của thợ làm giấy, đó là quy trình sản xuất giấy:
Nguyên liệu thô cho giấy
Chất liệu được lựa chọn cho thợ làm giấy ở Châu Âu là bông hoặc sợi lanh từ vải vụn. Các mảnh vải vụn được phân loại, làm sạch và đun nóng trong dung dịch kiềm, lúc đầu trong thùng mở và sau đó dưới áp suất hơi nước. Sau khi để ráo nước và tẩm gia vị, giẻ được rửa sạch và nghiền thành bột giấy, sau đó được tẩy trắng để loại bỏ những dấu vết cuối cùng của thuốc nhuộm và vết thâm đen còn sót lại trong quá trình nấu nướng.
Khuôn giấy
Để tạo thành một tờ giấy, người thợ làm giấy nhúng một khuôn giấy vào thùng đựng hàng và nhấc nó ra theo chiều ngang, giữ các sợi trên màn hình của khuôn. Khuôn giấy được làm bằng tay từ những sợi dây có độ dài song song với nhau bằng dây hoặc chỉ mảnh [khuôn “đặt”] hoặc từ lưới thép dệt [khuôn “đan”].
Làm khô tấm
Sau khi thành hình, tấm được lấy ra [“couched”] khỏi khuôn và đặt trên vải nỉ hoặc vải len để ép. Một xấp giấy và nỉ, được gọi là “đăng”, được đặt trong một máy ép vít bằng gỗ lớn, và tất cả công nhân trong nhà máy được triệu tập để siết chặt máy ép bằng cách đẩy hoặc kéo một đòn bẩy dài bằng gỗ. Theo cách này, một trụ dài 2 foot trung bình có thể giảm xuống còn 6 hoặc 8 inch.
Sau khi ép, các tấm vải đủ cứng để nhấc ra khỏi nỉ và treo lên sấy khô, thường được xếp theo nhóm 4 hoặc 5 tấm được gọi là “cựa” để tránh nhăn và quăn. Sấy khô thường được thực hiện ở tầng cao nhất của nhà máy, tránh xa muội và bụi.
Định cỡ và hoàn thiện
Để làm cho giấy ít thấm nước hơn, người ta nhúng tờ giấy khô vào gelatin hoặc keo động vật. Định cỡ như vậy đối với giấy viết quan trọng hơn đối với giấy in, vì mực in dày hơn và không thấm vào giấy dễ dàng như vậy. Phương pháp đầu tiên để làm mịn tấm đơn giản là đánh bóng từng tấm bằng tay với một viên đá bóng; một chiếc búa chạy bằng nước được phát triển vào đầu thế kỷ 17.
Câu 1: Người nước phát minh kỹ thuật in?
Theo sách “Lịch sử văn minh thế giới”, Trung Quốc là quốc gia đầu tiên trên thế giới phát minh kỹ thuật in vào khoảng thế kỷ thứ 2 TCN. Ngoài kỹ thuật in, Trung Quốc cũng là nước đã phát minh ra thuốc súng, kim chỉ nam, kỹ thuật làm giấy. Tranh minh họa nghề in ngày xưa. |
Câu 3: Ban đầu, người Trung Quốc khắc in lên…?
Trong giai đoạn đầu của lịch sử in ấn, người Trung Quốc đã khắc in lên những bản gỗ vào thời nhà Đường. Tuy nhiên, kỹ thuật in ấn này rất tốn kém và mất khá nhiều thời gian. Ảnh: Khoahoc.tv. |
Câu 4: Nghệ nhân nào đã phát minh kỹ thuật in bằng đất sét?
Đến thời nhà Tống, một nghệ nhân có tên Tất Thăng [990-1051] sáng chế ra chữ rời [hoạt tự], khiến việc in ấn trở nên nhanh chóng và dễ dàng hơn. Đầu tiên, ông khắc từng chữ một lên đất sét, rồi đem nung cứng trên lửa, những mảnh hoạt tự có khắc chữ này sau đó sẽ được gắn lên một tấm bảng sắt để tạo thành văn bản. Sau đó, tấm bảng này sẽ được tháo rời để lấy các ký tự đất sét ra dùng lại. Tranh vẽ nghệ nhân Tắt Thăng với nghề in. Ảnh: Khoahoc.tv. |
Câu 5: Kỹ thuật in của Trung Quốc sau đó lan truyền tới nước nào?
Kỹ thuật in ấn này được truyền đến Cao Ly [Triều Tiên], Nhật Bản, rồi thông qua người Mông Cổ truyền sang các nước phương Tây. Sự ra đời của kỹ thuật ấn loát hoạt tự đã đẩy mạnh tốc độ giao lưu, phát triển văn hóa giữa các nước trên thế giới. Ảnh: Khoahoc.tv. |
Câu 6. Ai được suy tôn là ông tổ của nghề in của Việt Nam?
Tại Việt Nam, tiến sĩ Lương Như Hộc thời Hậu Lê, người Liễu Tràng [huyện Gia Lộc, Tỉnh Hải Dương] được hậu thế suy tôn làm ông tổ của nghề in. Theo sách “Giai thoại lịch sử Việt Nam”, trong một chuyến đi sứ phương Bắc, Lương Như Hộc đã học được kỹ thuật in về truyền lại cho dân làng quê ông. Ảnh: Mộc bản triều Nguyễn được khắc in trên bản gỗ/Hoàng Thành Thăng Long. |
Câu 7. Chiếc máy in hiện đại đầu tiên trên thế giới được phát minh bởi người nước nào?
Vào năm 1430, nhà phát minh người Đức có tên là Johannes Gutenberg [1395-1468] đã phát minh máy in, tạo tiền đề cho sự ra đời của phương pháp in hiện đại. Phương pháp in hiện đại của ông ra đời tạo nên sự nhảy vọt về phát triển thông tin ở châu Âu, góp phần làm cho khu vực này phát triển nhanh hơn về khoa học kỹ thuật. Máy in đã đưa một lượng lớn thông tin đến thế giới với chi phí thấp và hiệu quả. Sự truyền bá kiến thức trong sách vở đã giúp những người khác có điều kiện tiếp cận các công nghệ mới và phát minh ra nhiều thứ hơn. Từ phát minh này, Johannes Gutenberg được xem là ông tổ nghề in hiện đại. Ảnh: BBC. |
Người Việt nào có sách in ở nước ngoài hơn 400 năm trước?Khi đi sứ nước ngoài, ông dâng lên vua Minh 30 bài thơ. Hoàng đế phương Bắc đã cho in thành sách để phổ biến rộng rãi trong nước. 19:00 29/6/2020 |