Giun đất có hình thức sinh sản như thế nào

Giun đất hay trùn đất là tên thông thường của các thành viên lớn nhất của phân lớp Oligochaeta [thuộc một lớp hoặc phân lớp tùy theo tác giả phân loại] trong ngành Annelida. Chúng có cấu trúc cơ thể ống trong ống, được phân đoạn bên ngoài với phân đoạn bên trong tương ứng và thường có các lông cứng trên tất cả các phân đoạn.[1]

Giun đất

Lumbricus terrestris, giun đất thường gặp ở châu Âu

Phân loại khoa họcGiới [regnum]AnimaliaNgành [phylum]AnnelidaLớp [class]ClitellataBộ [ordo]HaplotaxidaPhân bộ [subordo]LumbricinaCác họ

  Acanthodrilidae
  Ailoscolecidae
  Alluroididae
  Almidae
  Criodrilidae
  Eudrilidae
  Exxidae
  Glossoscolecidae
  Lumbricidae
  Lutodrilidae
  Megascolecidae
  Microchaetidae
  Ocnerodrilidae
  Octochaetidae

  Sparganophilidae

Giun đất thường sống ở những khu vực đất ẩm ướt, ruộng đồng, nương rẫy, đất hoang sơ,...[2] nơi có nhiều mùn hữu cơ và chúng ăn mùn hữu cơ.[3] Các chất hữu cơ này bao gồm chất thực vật, động vật nguyên sinh sống, luân trùng, tuyến trùng, vi khuẩn, nấm và các vi sinh vật khác.[4] Hệ tiêu hóa của giun đất chạy dọc theo chiều dài cơ thể.[5] Chúng có vai trò to lớn đối với ngành nông nghiệp do chúng làm đất tơi xốp và tăng độ phì nhiêu của đất. Giun đất còn là thức ăn cho gia súc và gia cầm.

Chúng là loài động vật không xương sống, thuộc Ngành Giun đốt. Giun đất là các loài lưỡng tính và có một bộ phận đặc trưng gọi là bao sinh dục. Chúng sử dụng bộ phận này trong quá trình giao phối. Sau khi giao phối thành công, bao này sẽ chứa đầy trứng đã thụ tinh và sẽ được giun "tháo" ra, từ đó nở ra thế hệ giun tiếp theo. Giun đất có khả năng phục hồi lại toàn bộ cơ thể đã mất nếu như phần đầu còn nguyên vẹn, nhưng không như mọi người vẫn lầm tưởng, chúng không có khả năng tạo ra các cá thể mới khi bị chia nhỏ thành nhiều đoạn.

Trùn đất [earthworms] là tên gọi chung cho tất cả các loại trùn sinh sống trên địa cầu này. Trên thế giới hiện có khoảng 4.400 loài trùn đất khác nhau đã được định danh. Dựa vào kích thước và tập tính loài, chúng được phân thành 3 nhóm chính:  EPIGEIC [eisenia foetida, eudrilus eugenie [nigerian], perionyx excavatus etc.], ENDOGEIC [pentoscolex sps. eutopeius sps. drawida sps etc.] và ANECEIC [polypheretima elongata, lampito maruti etc.].

Gồm các loài như Eisenia foetida, Eudrilus eugenie [nigerian], Perionyx excavatus [trùn quế]…. tập tính ăn của chúng thường là trên bề mặt đất với tất cả các loại chất hữu cơ, xác và chất thải động vật. Chúng phân huỷ chất hữu cơ nhưng không có vai trò cải tạo đất. Chính những tập tính ăn tạp như vậy nên nhóm trùn này thường thì cung cấp đạm rất cao, bên cạnh đó vì chúng thường sống trên bề mặt đất nên tiếp xúc với rất nhiều kẻ thù, vì thế mà trong cơ thể trùn chứa hàm lượng enzym rất cao. Đây là nhóm trùn dùng để làm thức ăn cho gia súc, gia cầm, thủy,hải sản… Bên cạnh đó, ngày nay ở các nước tiên tiến trên thế giới như: Canada, Mỹ, Úc, Nhật…người ta sử dụng nhóm trùn này để xử lý chất thải nông nghiệp và công nghiệp nhằm tránh gây ô nhiễm môi trường.

Gồm các loài như Lumbricus, Polypheretima elongata, Lampito maruti…. Chúng sống theo hàng thẳng đứng trong lòng đất, có khi đào hang sâu trong lòng đất cả 3m. Chúng ăn cả chất hữu cơ và khoáng chất trong đất, sau đó thải phân trên khắp hang chúng đi. Vào ban đêm chúng lên trên mặt đất để ăn và bắt cặp, chúng có quai hàm rất lớn và nghiền nát tất cả các chất thải hữu cơ. Vì thế chúng rất có lợi cho việc cải tạo đất, bên cạnh đó, vì nhóm trùn này rất lớn nên người ta còn sử dụng làm mồi câu cá.

Gồm các loài như Pentoscolex sps. Eutopeius sps. Drawida sps… Đây là giống trùn có tập tính ăn các khoáng chất trong đất hơn là chất hữu cơ, chúng di chuyển hàng ngang trong đất vì thế chúng không có tác dụng trong phân hủy chất hữu cơ và thường xuyên di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Giống trùn này cũng dùng để sử lý đất nhưng không tốt bằng Aneceic.

Ở Việt Nam, theo Trung tâm nghiên cứu động vật đất [Trường Đại học Sư phạm Hà Nội] thì chúng ta đã tìm ra trên 170 loài. Chúng phân bố rất rộng và có nhiều đặc tính khác nhau. Một số loài sống trong nước, còn đa số sống ở những nơi đất ẩm hoặc những chỗ có thảm thực vật dày. Có những loài rất nhỏ, cơ thể chỉ nặng khoảng 10 mg. Trong lúc đó, ở Australia có loài trùn đất khổng lồ dài tới 1,4m và nặng gần nửa cân! Tuy nhiên, điều mà bà con ta quan nhất là nên nuôi loài nào.

Vào những ngày mưa to hoặc những hôm trở trời, thường thấy có những con giun [trùn] lớn bò lên mặt đất. Chúng to bằng ngón tay út và dài như chiếc đũa. Đây là các bác “thợ cày” rất quý của chúng ta. Người ta gọi đó là giun khoang. Suốt ngày chúng đào bới trong đất để kiếm thức ăn. Hoạt động làm cho đất tơi xốp tạo nhiều biến đổi có lợi cho cây trồng. Cơ thể giun là một ống tròn, một đầu là miệng và đầu kia là hậu môn. Chúng ngoạm đất vào mồm rồi nuốt chửng. Khi đi qua ống tiêu hóa, các chất hữu cơ, chất mùn sẽ được chúng đồng hóa, hấp thụ. Sau đó, các chất còn lại sẽ bị tống ra ngoài qua hậu môn. Đó là phân giun [phân trùn – vermicast]. Phân giun là một loại đất rất tốt. Chúng tơi xốp và giữ được ẩm. Mặt khác, các dạng phân lân và phân kali khó tiêu, sau khi đi qua bụng giun đã trở thành những dạng dễ tiêu mà cây hấp thụ được. Tuy nhiên, loài giun này chưa phải là đối tượng để nuôi. Các loài giun đất dùng để nuôi phải có hàm lượng đạm cao, có tốc độ sinh trưởng nhanh, sống được trong những điều kiện chật hẹp và mau chóng thích nghi với những môi trường mới.

Trong hàng nghìn loài giun, người ta chỉ tìm được 6 – 7 loài nên nuôi. Mỗi nước lại thích nuôi một loài riêng. Tuy nhiên, loài giun quế hay còn gọi là giun đỏ [Perionyx escavatus] được nhiều nơi ưa nuôi. Ở nước ta, chúng tôi cũng khuyến khích nên nuôi loài giun này. Hiện tại Trại trùn quế SFARM đã phát triển việc chăn nuôi giun quế ở quy mô công nghiệp, tạo ra nguồn phân giun ổn định phục vụ cho trồng trọt.

Quá trình đi chuyển của giun đất gồm 3 bước:

  1. Thu mình làm phông đoàn đầu, thun đoạn đuôi.
  2. Giun chuẩn bị bò.
  3. Dùng toàn thân và vòng tơ làm chỗ dựa, vươn đầu về phía trước.

Giun đất ăn vụn thực vật và mùn đất. Hệ tiêu hoá chia làm nhiều phần, thức ăn lấy từ miệng, chứa ở diều, nghiền nhỏ ở dạ dày cơ, được tiêu hoá nhờ enzim tiết ra từ ruột tịt và hấp thu qua thành ruột.

Sự trao đổi khí [hô hấp] được thực hiện qua da.

Giun đất có tác dụng đào bới làm xốp đất. Phân giun đất là thứ phân bón sạch, rất tốt cho thực vật. Giun còn là phương tiện xử lí rác làm sạch môi trường. Giun đất có thể ăn vì nó có 70 phần trăm là đạm. Giun đất có thể làm thuốc chữa bệnh.

Chúng còn có thể làm thức ăn cho gia súc, gia cầm. Chúng cho đất loại phân tốt.

  1. ^ Edwards, Clive A.; Lofty, J. R. [1977]. Biology of Earthworms. London: Chapman & Hall. tr. preface. ISBN 0-412-14950-8.
  2. ^ Coleman, David C.; Crossley, D.A.; Hendrix, Paul F. [2004]. Fundamentals of Soil Ecology. Amsterdam; Boston: Elsevier Academic Press. tr. 170. ISBN 0-12-179726-0.
  3. ^ Bonkowski, Griffiths, and Ritz [tháng 11 năm 2000]. “Food preferences of earthworms for soil fungi”. Pedobiologia. 44–6 [6]: 667. doi:10.1078/S0031-4056[04]70080-3.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả [liên kết]
  4. ^ Lofty, Clive A.; Lofty, J. R. [1977]. Biology of Earthworms. London: Chapman & Hall. tr. 80. ISBN 0-412-14950-8.
  5. ^ Edwards, Clive A.; Lofty, J.R. [1977]. Biology of Earthworms. London: Chapman & Hall. tr. 19. ISBN 0-412-14950-8.

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Giun đất.

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Giun_đất&oldid=68266352”

Câu hỏi: Tìm hiểu về giun đất

Lời giải:

Giun đất hay trùn đất là tên thông thường của các thành viên lớn nhất của phân lớp Oligochaeta [thuộc một lớp hoặc phân lớp tùy theo tác giả phân loại] trong ngành Annelida. Chúng có cấu trúc cơ thể ống trong ống, được phân đoạn bên ngoài với phân đoạn bên trong tương ứng và thường có các lông cứng trên tất cả các phân đoạn.

Giun đất thường sống ở những khu vực đất ẩm ướt, ruộng đồng, nương rẫy, đất hoang sơ,...nơi có nhiều mùn hữu cơ và chúng ăn mùn hữu cơ. Các chất hữu cơ này bao gồm chất thực vật, động vật nguyên sinh sống, luân trùng, tuyến trùng, vi khuẩn, nấm và các vi sinh vật khác. Hệ tiêu hóa của giun đất chạy dọc theo chiều dài cơ thể. Chúng có vai trò to lớn đối với ngành nông nghiệp do chúng làm đất tơi xốp và tăng độ phì nhiêu của đất. Giun đất còn là thức ăn cho gia súc và gia cầm.

Chúng là loài động vật không xương sống, thuộc Ngành Giun đốt. Giun đất là các loài lưỡng tính và có một bộ phận đặc trưng gọi là bào sinh dục. Chúng sử dụng bộ phận này trong quá trình giao phối. Sau khi giao phối thành công, bao này sẽ chứa đầy trứng đã thụ tinh và sẽ được giun "tháo" ra, từ đó nở ra thế hệ giun tiếp theo. Giun đất có khả năng phục hồi lại toàn bộ cơ thể đã mất nếu như phần đầu còn nguyên vẹn, nhưng không như mọi người vẫn lầm tưởng, chúng không có khả năng tạo ra các cá thể mới khi bị chia nhỏ thành nhiều đoạn.

Cùng Top lời giải tìm hiểu thêm về những khía cạnh của giun đất nhé:

Đặc điểm giun đất

-Thông thường, loài này chỉ dài khoảng từ 7 đến 8 cm, tuy nhiên kích thước của một số cá thể có thể đạt tới 35 cm. Cơ thể của giun đất chia thành nhiều đoạn nhỏ với phần đầu tiên là miệng. Xung quanh thân hình được bao phủ bởi một lớp lông ngắn, cứng, nhờ đó, chúng di chuyển và đào hang dễ dàng hơn. Nơi sống của loài này là đất và lá ẩm. Cơ thể của chúng gồm 2 lớp, lớp ngoài là cơ bắp bao bọc một đường tiêu hóa dài bên trong.

-Trong quá trình đào hang, chúng ăn đất và các chất dinh dưỡng được chiết xuất ra từ những chiếc lá và rễ cây bị héo. Giun đất cũng góp phần rất quan trọng tới sự phì nhiêu của đất vì chúng vận chuyển chất dinh dưỡng và khoáng chất từ dưới lên trên mặt đất qua chất thải của mình. Đồng thời, cái hang dài giống như đường hầm của loài này cũng giúp đất được thoáng khí nữa. Mỗi ngày, một cá thể giun đất có thể ăn phần thức ăn nhiều bằng 1/3 trọng lượng cơ thể của nó

-Giun đất thường đi kiếm ăn vào buổi đêm. Còn ban ngày, chúng thích ẩn mình để thực hiện công việc đào đất – hang của loài này có thể sâu tới gần 2 mét.

Khả năng tái tạo

Giun đất có khả năng tái tạo phân đoạn bị mất, tuy nhiên khả năng này phụ thuộc vào từng loài riêng biệt. Bên cạnh đó, nếu bị thương quá nghiêm trọng thì chúng cũng không thể nào sống sót được. Khác với những gì nhiều người lầm tưởng, nếu một con giun đất bị cắt đôi, chúng sẽ không mọc lại thành hai con giun mới. Lúc này, nửa thân trước chứa đầu giun có thể vẫn tiếp tục sống và tái tạo ra phần đuôi của nó. Thay vào đó, phân nửa còn lại chứa đuôi giun lại không thể tự mọc đầu và sẽ chết.

Sự phân đoạn và sự nạo vét lòng đất

Loài vật có chiều dài trung bình chỉ khoảng vài cm, cá biệt có một số cá thể Giun đất phát triển tới 35 cm. Cơ thể Giun đất được tạo thành từ các phân đoạn giống như vòng gọi là Annuli. Những đoạn này được bao phủ bởi các lông nhỏ, giúp Giun đất di chuyển và đào hố. Nhờ khả năng đặc biệt này, loài Giun đất có thể sống ở độ sâu 2 mét dưới lòng đất.

Phần đầu Giun đất chứa miệng. Khi đào hang, chúng nuốt đất vòng trong, hấp thụ chất dinh dưỡng trong đất, rễ cây… và phân hủy các chất hữu cơ. Vì vậy Giun đất có vai trò rất quan trọng trong nông nghiệp, chúng giúp cải thiện độ tơi xốp, thoáng khí, thoáng nước, cải tạo độ dinh dưỡng, cấu trúc trong đất và tăng năng xuất cây trồng. Một ngày Giun đất có thể ăn số lượng thức ăn bằng 1/3 trọng lượng cơ thể mình.

Sinh sản

Giun đất thuộc loài động vật không xương sống, giống như các loài động vật thuộc Ngành Giun đốt, Giun đất sở hữu khả năng đặc biệt trong việc sinh sản. Mỗi cá thể Giun đất mang trong mình cả hai giới tính đực và cái, thực hiện giao phối thông qua “Bao sinh dục“. Tính lưỡng tính của Giun đất đặc biệt ở chỗ, khi giao phối thành công, Bao sinh dục sẽ chứa đầy trứng đã thụ tinh, tế bào này tích tụ trong kén. Sau giai đoạn mang thai từ hai tới bốn tuần, kén này sẽ nở ra các con Giun đất con.

Vai trò của giun đất đối với động vật

Giun đất là một nguồn thức ăn vô cùng bổ dưỡng đối với một số loại gia cầm, gia súc. Những loại gia cầm, gia súc có thể sử dụng giun đất làm nguồn thức ăn là gà, vịt, chim, lợn, ếch, trâu,… Trong giun đất có 70% là protein thô, không chứa tạp chất và chất độc hại. Lượng protein này có thể sánh ngang với protein có chứa trong thịt, cá. Thậm chí, trong thịt cá cũng không thể cung cấp đủ các chất cho vật nuôi như giun đất.

Ngoài ra, trong giun đất chứa khá nhiều axit amin giúp bổ sung các dinh dưỡng cần thiết để vật nuôi phát triển. Điều này giúp gia cầm, gia súc có được một nguồn thực phẩm sạch. Đồng thời, chủ đầu tư có thể tiết kiệm được một khoản chi phí rất lớn. Nguyên nhân là vì giun đất có thể tự hóa thành trong đất và phát triển rất mạnh mẽ. Bạn sẽ không phải bỏ phân, tưới nước,… mà giun đất vẫn sinh sôi rất nhiều.

Mặt khác, việc bảo quản giun đất để dùng dần cũng rất dễ dàng. Bạn chỉ cần để giun trong đất, chúng sẽ tự sinh sôi, phát triển và gia tăng số lượng. Chủ nuôi gia súc, gia cầm sẽ không bao giờ gặp tình trạng giun bị hư mốc, hết hạn như các loại thức ăn chế biến sẵn.

Tác dụng đối với đất và thực vật

Theo nghiên cứu từ các nhà khoa học, giun đất có rất nhiều lợi ích cho thực vật và môi trường đất. Cụ thể như sau:

- Giun đất có thể làm tơi xốp cho đất, giúp độ giữ nước trong đất tốt hơn.

-Giun đất tạo cách khoảng không trong đất giúp rễ cây có thể tiếp xúc được với nhiều Oxi.

-Chất thải từ giun đất là một loại phân bón tự nhiên rất tốt cho cây trồng.

-Giun đất giúp cải tạo môi trường đất rất tốt. Các vùng đất bị tha hóa, ít dưỡng chất có thể được cải tạo nhờ giun đất.

-Phân của giun đất có thể giúp cây trồng tránh được một số loại sâu bọ có hại.

-Vai trò của giun đất đối với cây trồng rất quan trọng, giun đất giúp cải tạo đất, tăng độ dinh dưỡng cho đất

Nhờ các vai trò của giun đất như trên, rất nhiều người đã sử dụng loài động vật này trong việc nuôi trồng thực vật. Đặc biệt, nhiều người dân đã nuôi giun đất lấy phân để trồng cây nảy mầm. Điều này giúp khả năng nhân giống cây đạt được hiệu suất cao. Ngoài ra, những vùng đất bị khai thác nhiều năm không còn màu mỡ sẽ được nuôi giun đất để cải thiện.

Vai trò của giun đất đối với con người

Ít ai biết rằng, giun đất có thể được sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho con người. Việc dùng trùn quế để làm thuốc không chỉ được áp dụng tại Việt Nam mà còn được sử dụng trên nhiều quốc gia trên thế giới. Các vị thuốc từ giun đất có thể điều trị những bệnh liên quan đến tim mạch, khớp, huyết áp,… Cụ thể, thuốc được chiết xuất từ giun đất giúp tăng cường tuần hoàn máu, ổn định huyết áp, điều hoà nhiệt độ cơ thể,…

Đối với trẻ nhỏ, thuốc từ giun đất sẽ giúp bé giảm tình trạng chán ăn, còi xương, lười ăn, suy nhược cơ thể, kén ngủ,… Từ đó, các bé sẽ nhanh chóng tăng cân, thèm ăn và ngủ ngon giấc. Đối với phụ nữ, thuốc từ giun đất sẽ giúp giảm sự co bóp tử cung và tình trạng giãn nở khí quản. Ngoài ra, bệnh hen suyễn, bệnh xơ vữa động mạch có thể sử dụng các loại thuốc chiết xuất từ giun đất.

Vai trò của giun đất đối với thực phẩm

Một vai trò rất ít người biết đến của giun đất là làm thực phẩm. Hiện nay, có rất nhiều quốc gia trên thế giới đã sử dụng giun đất để làm các món ăn hàng ngày. Đặc biệt ở Đài Loan, số lượng các món ăn sử dụng giun đất làm nguyên liệu đã lên đến 200 món. Ngoài ra, ở một số nước Châu Âu, giun đất được dùng chung với trứng ốp la để ăn sáng hàng ngày.

Khi sử dụng giun đất làm thức ăn, món ăn sẽ cung cấp một nguồn protein vô cùng dồi dào. Lượng vitamin là giun đất cung cấp gồm có A, B1, B2, C, E với nồng độ cao gấp 15 lần vitamin trong thịt cá. Chính vì có thể làm nên nhiều món thức ăn khác nhau, một quốc gia đã tạo thành đồ ăn đóng hộp từ giun đất.

Vai trò của giun đất đối với môi trường

Càng ngày, con người càng xả ra ngoài môi trường nhiều rác rải. Đồng thời, môi trường càng ngày càng tha hóa, thiếu chất dinh dưỡng trầm trọng. Điều này làm năng suất nuôi trồng của người dân giảm sút. Để giải quyết tình trạng trên, bạn có thể nuôi giun để cải thiện đất. Tại Nhật Bản, người dân đã dùng giun đất để xử lý hàng tấn rác thải mỗi năm.

Video liên quan

Chủ Đề