Ghép giác mạc mất bao lâu
Cấy ghép giác mạc được chỉ định trong: Show
Các chỉ định
Các chỉ dẫn phổ biến nhất là:
(Xem thêm Giới thiệu về rối loạn chức năng mồ hôi Giới thiệu về Bệnh lý giác mạc .) Quy trình
Không thực hiện đánh giá hòa hợp mô thường quy. Có thể sử dụng mô hiến từ người chết trừ khi có nghi ngờ về bệnh truyền nhiễm.
Có thể ghép giác mạc dưới mê toàn thân hoặc tiền mê kèm tra tê tại chỗ.
Kháng sinh tra được sử dụng trong vài tuần và corticoid được sử dụng trong vài tháng sau phẫu thuật. Để bảo vệ mắt khỏi chấn thương ngoài ý muốn sau ghép, bệnh nhân cần đeo tấm che mắt hoặc đeo kính bảo hộ.
Nếu là ghép xuyên thì bệnh nhân cần tới 18 tháng để phục hồi tối đa thị lực do khúc xạ giác mạc chỉ cải thiện khi vết mổ đã liền và đã cắt chỉ.
Ghép nội mô khi các lớp khác của giác mạc bình thường trong khi nội mô bất thường (ví dụ, loạn dưỡng Fuchs, bệnh giác mạc bọng sau mổ thủy tinh thể). Trong ghép nội mô (ví dụ, Descemet stripping endothelial keratoplasty [DSEK]) hoặc kỹ thuật mới nhất, Descemet Membrane Endothelial Keratoplasty (DMEK). DMEK sử dụng mảnh ghép mỏng hơn so với DSEK và có kết quả tốt hơn (ví dụ, hồi phục nhanh hơn, ít đào thải và thị lực tốt hơn). Tuy nhiên, DMEK là một kỹ thuật khó hơn và thường đòi hỏi phẫu thuật bổ sung để điều chỉnh các biến chứng (ví dụ, thay đổi vị trí của một mảnh ghép đã bị mất vị trí). Biến chứng
Các biến chứng bao gồm:
Tỷ lệ thải ghép thường < 10% (ví dụ như ở bệnh nhân bị bệnh giác mạc bọng sớm), nhưng có thể lên tới 68% ở những bệnh nhân có nguy cơ cao (ví dụ những người bị bỏng hóa chất). Tỷ lệ thải ghép thấp hơn so với phẫu thuật tạo hình xuyên thấu giác mạc so với phẫu thuật tạo hình giác mạc xuyên thấu và thậm chí thấp hơn đối với DMEK từ 1 đến 3%. Các triệu chứng thải ghép gồm giảm thị lực, nhạy cảm ánh sáng, đau mắt, và đỏ mắt. Thải ghép được điều trị bằng corticoid tại chỗ (ví dụ, prednisolone 1% mỗi giờ), đôi khi với tiêm bổ xung cạnh nhãn cầu (ví dụ triamcinolone acetonide 40 mg). Nếu thải ghép nặng hoặc nếu chức năng mảnh ghép ở ngưỡng ranh giới, có thể bổ sung corticoid đường uống (ví dụ prednisone 1 mg/kg/ngày) và đôi lúc là đường tĩnh mạch (ví dụ, methylprednisolone 3 đến 5 mg/kg một lần). Thông thường, mảnh ghép sẽ ổn định trở lại và có chức năng bình thường. Ghép có thể thất bại nếu thải ghép nặng hoặc kéo dài hoặc xảy ra nhiều đợt thải ghép khác nhau. Có thể ghép lại nhưng tiên lượng kém hơn lần đầu. Có thể ghép giác mạc nhân tạo nếu ghép nhiều lần thất bại. Tiên lượng
Cơ hội thành công thành công lâu dài của ghép là
Sử dụng thấu kính giác mạc cứng có thể cho kết quả thị lực sớm hơn và tốt hơn đối với phẫu thuật tạo hình giác mạc xuyên thấu. Sự cải thiện thị lực tối đa thường xảy ra sau 6 tháng trong DSEK và 2 tháng trong DMEK. Thị lực 20/20 phổ biến hơn với DMEK so với DSEK. Tỉ lệ thành công cao của ghép giác mạc phụ thuộc vào nhiều yếu tố gồm mức độ vô mạch của giác mạc và tiền phòng không có tế bào viêm. Các điều kiện này thúc đẩy sự dung nạp ở vùng thấp (một dung nạp miễn dịch do tiếp xúc thường xuyên với liều thấp của một kháng nguyên) và một quá trình gọi là độ lệch miễn dịch liên quan đến tiền phòng, trong đó có sự ức chế hoạt động của lympho bào và đáp ứng quá mẫn muộn với kháng nguyên là mảnh ghép giác mạc. Một yếu tố quan trọng nữa là hiệu quả của corticoid tại chỗ, và toàn thân để điều trị thải ghép. Ghép tế bào nguồn vùng rìa
Ghép tế bào nguồn cùng rìa để thay thế các tế bào nguồn cũ kém chức năng. Tế bào gốc của vật chủ thường nằm ở khu vực này. Ghép được chỉ định khi tế bào nguồn của vật chủ bị tổn hại không hồi phục do chấn thương hoặc bệnh lý.
Các bất thường như bỏng hoá chất Bỏng mắt
Tế bào nguồn vùng rìa có thể ghép từ mắt lành của bệnh nhân hoặc từ mắt người chết. Các tế bào nguồn bị tổn thương sẽ được loại bỏ khỏi vùng rìa (lớp biểu mô và lớp nhu mô bề mặt). Mô hiến sẽ được khâu cố định vào vùng cần ghép với chiều dày các lớp tương tự. Chỉ cần dùng ức chế miễn dịch đường toàn thân khi nhận mảnh ghép từ người chết. Những điểm chính
|