Đơn vị hành chính địa phương của nước Đại Cồ Việt thời nhà Đinh có tên gọi là gì và có bảo nhiều

LTS: Năm 2018, kỷ niệm 1050 Nhà nước Đại Cồ Việt ra đời. Đây là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dân tộc. Xin giới thiệu bài viết của Giáo sư sử học Lê Văn Lan về sứ mệnh dẹp loạn 12 sứ quân và thành lập Nhà nước Đại Cồ Việt độc lập, tự chủ của vị anh hùng “cờ lau tập trận” Đinh Bộ Lĩnh.

  • 1.040 năm Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế

Dẹp loạn 12 sứ quân

Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh 44 tuổi, người làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng [nay thuộc thôn Văn Bòng, xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình]. Có nghĩa: 30 năm về trước, khi Ngô Quyền lập đại võ công sông Bạch Đằng [năm 938], cản phá quân xâm lược Nam Hán, chính thức và vĩnh viễn khép lại thời đại “Bắc thuộc” đen tối hơn nghìn năm trước đây; đồng thời chính thức và chắc chắn mở ra kỷ nguyên độc lập – tự chủ hơn nghìn năm sau đấy, họ Đinh mới 14 tuổi.

Ở tuổi thiếu niên ấy, có thể Đinh Bộ Lĩnh chỉ mới nhận thức được sự kỳ vĩ của việc Ngô Quyền – ngay sau trận đánh ở cửa  sông Bạch Đằng đã về Cổ Loa [Kinh đô cũ của An Dương Vương, nước Âu Lạc] và lên ngôi “Vương” ở đấy để “nối lại quốc thống” [truyền thống độc lập tự chủ của quốc gia], mà chưa hiểu rõ được điều mà Ngô Quyền chưa kịp làm: khắc phục cái rớp – như một mạch ngầm xã hội và lịch sử, cũng từ nghìn năm trước chảy trôi về - cát cứ, phân quyền, của các “thổ hào” [thủ lĩnh địa phương].

Cho nên, ngay sau khi Ngô Quyền mất [năm 944], triều đình nhà Ngô ở Cổ Loa suy yếu, thì, với phẩm chất bẩm sinh từ thuở còn thơ ấu – “Cờ lau tập trận” – của một nhà quân sự tài năng lớn, và được quần chúng ở quê hương Đại Hoàng suy tôn, Đinh Bộ Lĩnh đã trở thành “Tù trưởng sách Đào Ao”, “Thủ lĩnh châu Đại Hoàng” [nay là miền các xã Gia Hưng, Gia Phú, Liên Sơn [huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình].

Và đến năm 951, ở tuổi 27 thì đã kháng cự thắng lợi, chống lại được cuộc đưa quân từ Cổ Loa đến trấn Dẹp, của hai anh em Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn – con trai kế thừa kém cỏi ngôi Vương của triều đình Cổ Loa do Ngô Quyền để lại.

Đến năm 965, khi cả Xương Ngập và Xương Văn đều mất thì Đinh Bộ Lĩnh đã thực sự trở thành một thế lực địa phương mạnh vào bậc nhất, trong sự nghiệp và thời bùng nổ cục diện “Loạn thập nhị sứ quân” – như được mệnh danh trong các bộ sử cũ.

Bởi vì, trước đó, từ căn cứ “Châu Đại Hoàng” ở miền rừng núi phía Tây tỉnh Ninh Bình ngày nay, Đinh Bộ Lĩnh đã thực hiện được một cuộc “liên kết” ngoạn mục, với một thế lực địa phương khác, do “sứ quân” Trần Lãm cầm đầu, hùng cứ ở miền đồng bằng ven biển, phía Nam tam giác châu thổ sông Hồng, với trung tâm là “Bố Hải Khẩu” [tức: thành phố Thái Bình ngày nay].

Với phương thức hành động giỏi kết hợp chính trị với quân sự, khéo léo “lấy lòng” Trần Lãm, đồng thời trổ tài cầm quân, giúp Trần Lãm đánh dẹp các thế lực thổ hào nhỏ hơn ở trong vùng, cuối cùng được Trần Lãm tin yêu, giao cho tất cả binh quyền và đất đai, cư dân thuộc vùng hùng cứ - Đinh Bộ Lĩnh đã không chỉ trở thành chúa tể miền đất chiến lược căng ngang – từ Tây sang Đông – cả cạnh đáy, giáp biển, của tam giác châu thổ sông Hồng, mà còn hiện diện giữa cuộc “Loạn thập nhị sứ quân” như một thủ lĩnh, không chỉ kiệt xuất về quân sự, mà còn sắc sảo, giỏi giang về chính trị, đặc biệt là một nhân vật có chí hướng và thích làm lớn.

Đem ứng ngay điều này vào việc tự nhận sứ mạng dẹp “Loạn thập nhị sứ quân” trong các năm từ 965 đến 967, dưới ngọn cờ đề ba chữ “Vạn Thắng Vương”, Đinh Bộ Lĩnh đã cho đương thời và lịch sử, thấy ở mình, bản lĩnh lợi hại của một nhà quân sự bẩm sinh, dưới [ở trong] không chỉ một tấm chiến bào, mà còn là cả chiếc áo thụng của một chính khách, ngày càng thâm trầm, sắc sảo, là như thế nào.

Chỉ có 6 [một nửa] trong số 12 sứ quân [là: Đỗ Cảnh Thạc, Nguyễn Siêu, Kiều Công Hãn, Kiều Thuận, Nguyễn Thử Tiệp, Lý Khuê] khiến Đinh Bộ Lĩnh phải dùng “biện pháp quân sự” đánh dẹp.

Còn như trường hợp Ngô Nhật Khánh [là họ hàng với Ngô Quyền] thì gả con gái [là Công chúa Phất Kim] cho làm vợ, và thu nạp mẹ của Nhật Khánh làm “hoàng hậu” [vợ] của mình [dùng hôn nhân để thu phục]; trường hợp sứ quân Lã Đường ở Văn Giang [Hưng Yên] cũng được Đinh Bộ Lĩnh khéo léo khuất phục. Duy nhất, sứ quân Nguyễn Khoan ở Yên Lạc [Vĩnh Phúc ngày nay] được sử cũ chép là “Tự tan rã”!

Vậy là, đến cuối năm 967, trước mắt, Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh và người dân cả nước Việt lúc bấy giờ, là một cảnh tượng - có phần nào giống với tình hình cuối năm 938, khi Ngô Quyền vừa đánh xong trận Bạch Đằng – “Trời quang mây tạnh”. Sau “giông bão” tiền đồ đang hứa hẹn,  đòi hỏi phải làm được một “đại sự” nào đấy, cho thật xứng đáng và xứng hợp.

Có phần nào khác với Ngô Quyền, trong thời gian hơn 20 năm khắc phục nạn cát cứ - phân quyền, Đinh Bộ Lĩnh đã cho mọi người thấy: Có một nhân vật lịch sử lớn – vừa là một nhà quân sự kiệt xuất, vừa là một chính trị gia lão luyện – họ Đinh, là mình, đã xuất hiện. Nhất định, nhân vật lịch sử đó sẽ phải nghĩ suy, tính toán, để vào năm 968, làm được những việc đại sự, trước đấy chưa từng thấy.

Lên ngôi hoàng đế, thành lập nước Đại Cồ Việt

Những bối cảnh và điều kiện cả chủ quan lẫn khách quan, cả bên trong lẫn bên ngoài để bây giờ, sau 1.050 năm, đọc lại sử cũ, thấy sách “Đại Việt sử ký toàn thư” viết gọn gàng nhưng rành rẽ và chặt chẽ: “Mậu Thìn [tức năm 968 dương lịch], vua [Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh] lên ngôi, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đặt Kinh đô ở Hoa Lư, bắt đầu dựng đô mới, đắp thành, đào hào, xây cung điện đặt triều nghi. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế”.

Chỉ qua mấy dòng viết kiệm lời theo đúng sử bút cổ truyền như vậy, mọi người đều thấy hiển hiện 3 đại sự vượt bậc và có ý nghĩa thật lớn lao, đã được Đinh Bộ Lĩnh thực hiện ngay vào năm 968:

Một là, lên ngôi “Hoàng đế” mà không xưng “Vương” nữa, vì đã là “Vạn Thắng Vương” rồi. Nhưng không phải chỉ có thế. Việc “xưng đế hiệu” mà không xưng “Vương hiệu” – mặc dù trong tiếng Việt, “Đế” hay “Vương”  thì cũng đều là “vua” cả nhưng động thái này rất có ý nghĩa về mặt ngoại giao, tránh “chạm cạnh” với Hoàng đế nước láng giềng phương Bắc; chính  sự rành rẽ này, phát đi những tín hiệu rất rõ ràng về sự bình đẳng/ bình quyền, giữa nước Việt phương Nam và nước Trung Hoa ở phương Bắc, đúng như sự khẳng định ở 5 thế kỷ sau của thiên tài Nguyễn Trãi, trong “Bình Ngô Đại cáo”, bằng 4 chữ thần tình: “Các đế nhất phương” [cùng là “đế” một phương].

Vị Hoàng đế đầu tiên của triều đại nhà Đinh – Đinh Tiên Hoàng Đế, đang được “gọi tắt” là: Đinh Tiên Hoàng – còn có tôn hiệu “do quần thần dâng” là: “Đại Thắng Minh Hoàng Đế”! Hai chữ “Đại Thắng” vừa là để tuyên ngôn về truyền thống hào hùng, oanh liệt của dân tộc và của chính Đinh Bộ Lĩnh, vừa khẳng định nhân cách và sự nghiệp của nhà quân sự kiệt xuất họ Đinh trước đây, bây giờ vẫn được kế tục. Thêm vào một chữ “Minh” nữa, càng làm rõ phẩm chất nhà chính khách của vị tân hoàng đế, đồng thời biểu thị yêu cầu của thời cuộc, là mục đích làm Hoàng đế của Đinh Bộ Lĩnh.

Hai là, thành lập một quốc gia dân tộc, một thể chế nhà nước quân chủ tập trung, với bộ máy chính quyền trung ương được tổ chức chặt chẽ, để quản lý [quản trị] một đất nước đã giành lại được độc lập từ thời Ngô Quyền rồi, nhưng bây giờ thì thêm sự thống nhất nữa khi “Loạn thập nhị sứ quân” đã được khắc phục. Đồng thời, sẵn sàng sức mạnh quốc gia mà đối phó với những mưu toan của ngoại bang lăm le xâm lược.

Quốc gia dân tộc ấy, có tên gọi là “Đại Cồ Việt”, một quốc hiệu “vừa chữ [Hán] vừa nôm [dân tộc]”, vừa khẳng định tộc danh “Việt”, vừa biểu đạt xu hướng, khí thế của sự phát triển mạnh mẽ của đất nước và dân tộc, là: rất lớn, “hai lần lớn lao” [tức: Vừa “đại” vừa “cồ”]. Ba là, lựa chọn và đặt định, đồng thời xây dựng kinh đô của quốc gia [đất nước] và triều đại [nhà Đinh] ở Hoa Lư [Thung lũng hoa Lau]. Đương thời và cho đến ngày nay, vẫn có hai địa điểm và địa danh cùng là Hoa Lư [Thung Lau].

Những năm sau đó, sử cũ cũng còn chép được nhiều việc quan trọng, lớn lao nữa, đã được Đinh Bộ Lĩnh và triều đại của ngài thi hành. Đó là chuỗi công việc và sự nghiệp, tiếp tục và tăng cường hoàn thiện, những đại sự đã được thực hiện, trong và từ năm 968 lịch sử.

Vì thế, năm 968 trong lịch sử mấy nghìn năm của dân tộc, thường vẫn được “gọi gọn” là: Năm thành lập nước Đại Cồ Việt với một loạt các sáng tạo vượt bậc, luôn và mãi là một cột mốc kỳ vĩ, với nhân vật lịch sử lớn: Đinh Bộ Lĩnh mà thân thế và sự nghiệp còn cần được nghiên cứu sâu sắc thêm và hơn rất nhiều nữa trên dòng lịch sử lâu đời và hào hùng của đất nước và dân tộc ta.

Nhà sử học Lê Văn Lan

Vị trí dựng đặt kinh đô Hoa Lư có diện tích khoảng 300 ha, là vùng đồng chiêm trũng được bao quanh bởi hàng loạt núi đá vòng cung, cảnh quan hùng vĩ, núi non hiểm trở. Với tầm nhìn của nhà quân sự, Đinh Tiên Hoàng đã triệt để lợi dụng địa thế tự nhiên để xây thành, đắp lũy, nối liền các khoảng trống giữa các núi thành một hệ thống khép kín. Mặc dù chức năng quân sự được thể hiện rõ trong kiến trúc tự nhiên của kinh thành Hoa Lư nhưng về cơ bản nó vẫn đảm bảo trọn vẹn chức năng là trung tâm chính trị, văn hóa của Vương triều Đinh buổi đầu kiến lập.

Kinh đô Hoa Lư bao gồm thành Ngoại và thành Nội. Thành Ngoại rộng khoảng 140 ha thuộc địa phận các thôn Yên Thượng, Yên Thành, xã Trường Yên. Đây là cung điện chính mà khu vực đền Đinh, đền Lê là trung tâm và cũng chính là nơi vua Đinh Tiên Hoàng cắm cờ nước. Trước cung điện có núi Mã Yên tương truyền vua Đinh lấy núi làm án. Thành Nội có diện tích tương đương thành Ngoại, thuộc thôn Chi Phong, xã Trường Yên có tên là Thư Nhi xã, nơi nuôi trẻ em và những người giúp việc trong cung đình. Hai thành này được ngăn cách với nhau bằng một lối đi tương đối hiểm trở gọi là quèn Vòng.

Kinh đô Hoa Lư do Đinh Tiên Hoàng tổ chức xây dựng là một công trình kiến trúc lớn nhất của đất nước sau ngàn năm Bắc thuộc. Từ đây, bộ máy chính quyền của Nhà nước độc lập tự chủ do Đinh Tiên Hoàng đứng đầu đã củng cố và giữ vững chủ quyền của quốc gia và dân tộc.

Xưng đế, đặt quốc hiệu, dựng kinh đô, định niên hiệu, Đinh Bộ Lĩnh đã khẳng định nền độc lập, tự chủ của quốc gia Đại Cồ Việt và bắt tay vào xây dựng một mô hình Nhà nước với thiết chế mới.

ở triều đình Hoa Lư, người đứng đầu và có vai trò quyết định mọi công việc trọng đại có liên quan đến vận mệnh của đất nước và Vương triều là Hoàng đế- tức Đinh Tiên Hoàng.

Tổ chức bộ máy Nhà nước ở triều đình được chia làm hai ban văn, võ. Do nguồn sử liệu biên chép về thời kỳ này khá hạn chế nên chỉ có thể biết được năm 971, Đinh Tiên Hoàng phong Nguyễn Bặc chức Định quốc công đứng đầu triều, Lưu Cơ được phong là Đô hộ phủ sĩ sư trông coi việc hình án. Ngoài ra còn có chức Thái sư do Hồng Hiến [người gốc Trung Quốc] đảm nhiệm hay Trịnh Tú giữ chức Sứ quán...

Cũng trong năm 971, Đinh Tiên Hoàng phong Lê Hoàn giữ chức Thập đạo tướng quân đứng đầu quân đội. Năm 974, cùng với việc chia đất nước thành 10 đạo, Đinh Tiên Hoàng cũng quy định số quân của các đạo: "Mỗi đạo có 10 quân, mỗi quân có 10 lữ, mỗi lữ có 10 tốt, mỗi tốt có 10 ngũ, mỗi ngũ có 10 người, đầu đội mũ bình đính vuông bốn góc".

Như vậy, dưới triều Đinh, lực lượng quân đội lên đến khoảng 1 triệu người [chiếm 1/3 dân số]. Phạm Bạch Hổ- hay còn gọi là Phạm Phòng át, nguyên là sứ quân hùng cứ vùng Kim Động [Hưng Yên]- được phong chức Thân vệ tướng quân nắm giữ quân đội trong kinh thành lực lượng khoảng 3.000 người trực tiếp bảo vệ kinh đô; Ngoại giáp Đinh Điền và Vệ úy Phạm Hạp cùng trông coi lực lượng quân sự bên ngoài [quân Tứ sương chuyên lo bảo vệ các cổng thành và các vòng thành].

Đảm nhiệm công việc bang giao [chủ yếu với triều Tống ở Trung Quốc], Đinh Tiên Hoàng giao cho con trai trưởng là Đinh Liễn đặc trách. Năm 969, chỉ một năm sau khi Vương triều thành lập, Đinh Tiên Hoàng đã phong cho Đinh Liễn làm Nam Việt Vương [nhân vật đứng thứ hai sau Hoàng đế] trông coi công việc bang giao và "mùa xuân, tháng giêng năm Canh Ngọ [970] sai sứ sang giao hảo với nhà Tống" chính thức đặt mối quan hệ bang giao giữa hai quốc gia, hai Vương triều; năm 975, nhà Đinh sai Trịnh Tú đi sứ nhà Tống, tiếp đó, nhà Tống sai Cao Bảo Tự đem chế sách sang phong Đinh Liễn làm Khai phủ nghi đồng tam kỵ, Kiểm hiệu Thái sư, Giao Chỉ Quận vương. Từ đó về sau, sai sứ sang nhà Tống đều do Đinh Liễn làm chủ.

Trong triều đình Hoa Lư thời Đinh, bên cạnh đội tướng lĩnh ngũ công thần từng theo Đinh Bộ Lĩnh "dẹp loạn", thống nhất đất nước, kiến lập Vương triều thì tầng lớp tăng lữ có một vai trò rất quan trọng. Đội ngũ này gần như là "cố vấn" cho Hoàng đế và triều đình trong công tác nội trị và bang giao. Năm 971, Đinh Tiên Hoàng ban hiệu Khuông Việt đại sư cho Tăng thống Ngô Chân Lưu, cho Trương Ma Ni làm Tăng lục, Đạo sĩ Đặng Huyền Quang được trao chức Sùng chân uy nghi...

Dưới thời Đinh, tổ chức bộ máy chính quyền ở địa phương không được sử sách ghi chép nhiều. Năm 974, Đinh Tiên Hoàng chia cả nước Đại Cồ Việt làm 10 đạo mà hiện nay địa bàn của từng đạo cũng rất khó xác định. Chính quyền địa phương thời Đinh gồm các cấp: đạo, phủ, châu, giáp và xã. Hệ thống quan chức các cấp chính quyền cũng không xác định được rõ ràng.

Có lẽ, người đứng đầu đạo do triều đình cử về [như trường hợp Bùi Quang Dũng được cử về trấn giữ vùng Bố Hải khẩu, Thái Bình]; chức phủ, châu do thổ hào địa phương nắm giữ còn giáp và xã có quản giáp, phó tri giáp, chánh lệnh trưởng, tá lệnh trưởng đứng đầu như từ thời họ Khúc, Giáp, xã tuy đã xuất hiện nhưng chưa nhiều. Theo thống kê của Cao Hùng Trưng [tác giả thời Thanh] trong An Nam chí nguyên thì thời Khúc cả nước có 314 giáp.

Cùng với việc từng bước xây dựng và kiện toàn bộ máy quản lý từ Trung ương đến các cấp đạo, phủ; xây dựng củng cố lực lượng quân sự, thì nền pháp chế thời kỳ này cũng bắt đầu được để ý đến. Đinh Tiên Hoàng đã đặt chức Đô hộ phủ sĩ sư coi việc hình án- một chức quan Tư pháp và giao cho Lưu Cơ giữ chức này. Chính sử nước ta cho biết, ngay từ những thập niên đầu công nguyên, người Việt đã có luật nhưng xây dựng một bộ luật thành văn thì mãi đến đầu triều Lý mới thấy nhắc đến, đó là bộ Hình thư [đã thất truyền].

Như vậy, dưới triều Đinh chưa có một bộ luật thành văn mà chỉ có những quy định, quy tắc buộc mọi người phải tuân thủ. Việc quy kết tội danh và các hình thức xử phạt còn rất thô phác, dân dã. "Vua muốn dùng uy thế ngự thiên hạ, bèn đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng: "Kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn". Mọi người đều sợ phục, không ai dám phạm.

Về cơ bản, mô hình Nhà nước quân chủ tập quyền thời Đinh còn phôi thai, bộ máy Nhà nước, hệ thống pháp luật còn dân dã, thô phác. Trong hệ thống quan lại triều Đinh được ghi chép trong các bộ chính sử sau này chỉ thấy xuất hiện tên tuổi một số võ tướng gắn bó mật thiết với Đinh Bộ Lĩnh từ thời "dẹp loạn" như Định Quốc công Nguyễn Bặc, Lê Hoàn, Trịnh Tú, Lưu Cơ [Huân thần khai quốc], Phạm Hạp, Phạm Cự Lạng [dòng dõi cựu thần]; Phạm Bạch Hổ, Trần Thăng, Ngô Nhật Khánh, Đỗ Thích [cựu các sứ quân hoặc dòng dõi các sứ quân]; Ngô Chân Lưu, Trương Ma Ni, Đặng Huyền Quang [tăng lữ]...

Nguồn tư liệu địa phương như thần tích, gia phả, bi ký ghi nhận thêm một số nhân vật khác trong bộ máy chính quyền nhà Đinh buổi đầu như Sứ quân Trần Lãm; Tả bộc xạ Lê Lương [nguyên là một thổ hào lớn ở Thanh Hóa]; Trinh Quốc công Bùi Quang Dũng [Thái Bình] và Kiến Nghĩa hầu Nguyễn Tấn [Nam Định] được xếp huân thần khai quốc.

Với việc xưng đế hiệu, đặt quốc hiệu, định niên hiệu, thiết lập triều chính gồm hai ban văn, võ cũng như bộ máy chính quyền địa phương, tổ chức quân đội, bước đầu xây dựng nền pháp chế [mới dừng ở quy định, quy tắc]; xây dựng mối bang giao cũng như triển khai các hoạt động kinh tế, mô hình Nhà nước triều Đinh đã hướng đến xu thế tập trung quyền lực vào triều đình Trung ương, trong đó Hoàng đế [Đinh Tiên Hoàng] là người nắm giữ quyền lực tối cao.

Bàn về triều Đinh và Đinh Tiên Hoàng, sử gia Lê Văn Hưu viết: "Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn người dũng cảm mưu lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà mười hai sứ quân phục hết. Vua mở nước dựng đô, đổi xưng Hoàng đế, đặt trăm quan, lập sáu quân, chế độ gần đầy đủ...".

Sử thần Lê Tung trong Việt giám thông khảo tổng luận nhận định: "Đinh Tiên Hoàng nhân khi nhà Ngô loạn lạc, dẹp được 12 sứ quân, trời cho người theo, thống nhất bờ cõi... sang chế triều nghi, định lập quân đội. Vua chính thống của nước Việt ta thực bắt đầu từ đấy..."

Trong hai bộ sử lớn nhất của Việt Nam thời phong kiến là bộ Đại Việt sử ký toàn thư [Ngô Sĩ Liên và sử thần triều Lê] và Khâm định Việt sử thông giám cương mục [Quốc sử quán triều Nguyễn] đều có nhìn nhận tương đối nhất quán về triều Đinh khi đưa triều Đinh mở đầu cho phần Bản kỷ [Toàn thư] và Chính biên [Cương mục]. Điều đấy càng khẳng định thêm về vị trí của Vương triều Đinh trong tiến trình lịch sử dân tộc.

PGS.TS. Nguyễn Đức Nhuệ

Video liên quan

Chủ Đề