Direct speech act là gì

I. PHƯƠNG DIỆN CHỨC NĂNG LIÊN NHÂN CỦA VÃN BẢN LUẬTPHÁP TIẾNG VIỆT1.1. Động từ ngữ vi và câu ngữ vi - phương tiện ngôn ngữ quantrọng góp phần tạo tính hành thực cho văn bản luật pháp1.1.1. Giới thiệuNhư ở chương 1 đã nêu, để hoàn thành các mục đích giao tiếp do chứcnăng của nó quy định, văn bản luật pháp phải mang bản chất của một hành vingôn ngữ [speech act]. Điều đó có nghĩa là để điều tiết các mối quan hệ xãhội, nó phải quy định quyền và nghĩa vụ, hay bắt buộc hoặc cho phép các đốitượng mà nó điều tiết làm, được làm hoặc không được làm những gì. Như vậycó thể nói về thực chất, văn bản luật pháp là loại văn bản mang tính hành thực[performativity - thuật ngữ của Maley 1994].Một trong những phương tiện quan trọng nhất đem lại cho văn bản luậtpháp, xét về mặt ngôn ngữ học, tính hành thực nói trên là động từ ngữ vi[performative verb] và câu ngữ vi. Trước khi xem xét cơ chế hoạt động củachúng trong văn bản, ta sẽ điểm qua một số khái niệm cơ bản liên quan. Đó là"động từ ngữ vi" [performative verb], "hành vi ngôn trung" [illocutionary act],"lực ngôn trung" [illocutionary force].Austin [1962] quan niệm rằng bất cứ một hành động nói năng nào cũngcó ba hành vi liên quan là : 1] hành vi tạo ngôn [locutionarv act], 2 ] hành vingôn trung [illocutionary act] và 3] hành vi xuyên ngôn [perlocutionary act].Hành vi tạo ngôn là hành động nói một cái gì đó có V nghĩa, hay tạo ra nộidung mệnh đề. Hành vi ngôn trung là hành vi được thực hiện bằng lời nói khingười ta nói, vì nói là thực hiện một hành động nào đó như: hỏi, trả lời, ra lệnh,tuyên bố, yêu cầu, khuyên nhủ v.v. Khi nói người ta nhằm hoàn thành mộtmục đích giao tiếp nhất định qua phát ngôn của mình. Việc đó được thực hiện48 qua lực ngôn trung [illocutionary force]. Hành vi xuyên ngôn là khía cạnh thứ3 của hành động nói năng. Khi nói ta cũng nhằm gây ra một hiệu quả nào đóvạ việc tạo ra một hiệu quả qua lời nói như vậy được gọi là hành vi xuyênngôn.Ví dụ : Khi một người nào đó nói: "Lát nữa tôi sè gặp anh" thì ngoài nộidung mệnh đề được tạo ra bởi hành vi tạo ngôn trên, tuỳ ngữ cảnh giao tiếpngười nghe còn biết rằng có thể đây là một đề nghị [Tôi đề nghị là lát nưã tôisẽ gặp anh], hay một lời hứa [Tôi hứa là lát nữa tôi sẽ gặp anh] [hành vi ngôntrung]. Tuỳ trường hợp người nghe có thể vui mừng chờ đón [lời hứa] hoặc hồihộp lo âu [lời đề nghị]. Hiệu quả tạo ra bằng lời nói như vậy được gọi là tácđộng xuyên ngôn [perlocutionary effect] và hành vi gây ra tác động này làhặnh vi xuyên ngôn [perlocutionary act]. Như vậy cùng một nội dung mệnh đểcó thể chứa những lực ngôn trung khác nhau được thực hiện qua các hành vingôn trung tương ứng và tạo ra các hiệu quả xuyên ngôn khác nhau.Các động từ "đề nghị", "hứa" ở ví dụ trên làm hiển minh các hành vingôn trung tương ứng được gọi là các động từ ngữ vi [performative verb]. Nhưvậy động từ ngữ vi được hiểu là một phương tiện ngôn ngữ làm tường minhmột hành động ngôn trung nào đó. Ví dụ, khi nói "tôi hứa" người nghe hiểurằng người nói đã thực hiện hành động hứa hẹn. Các phát ngôn như vậy đượcgọi là câu ngữ vi.Austin [1962] đã chia các hành vi ngôn trung thành 5 loại và sau nàySearle [1969] điều chỉnh lại lại thành 5 loại như sau :1] Khẳng định [assertive]: khẳng định, tường thuật, miêu tả, thông báo,giải thích...2] Khuyến lệnh [directive]: mệnh lệnh, thách thức, hỏi, yêu cáu, dênghị, cho phép...49 3] Cam kết [commissive]: cam đoan, thề, hứa, cho, tặng ...4] Biểu lộ [expressive]: xin lỗi, chúc mìùĩg, tán thưởng, cảm ơn, mongmuốn, biểu lộ tình cảm ....5] Tuyên bố [declaration]: tuyên bố, kết tội, từ chức, khai trừ...Sau này Searle [1979] tổng kết 5 chức năng chung của ngữ vi với cácđạc điểm chủ chốt của chúng như sau :Hướng của khớp ghép giữa từngữ với thực tạiTuyên bốTừ ngữ làm thay đổi thực tạis = người nóiX = tình huốngs gây ra XBiểu hiệnLàm từ ngữ khớp ghép với thực tạis tin là XBiểu lộLàm từ ngữ khớp ghép với thực tạis cảm nhận XKhuyến lệnhLàm từ ngữ khớp ghép với thực tạis muốn XCam kếtLàm từ ngữ khớp ghép với thực tạis định XLoại ngữ viBảng 4 : Đặc điểmcủa các loại ngữ vi[Nguồn: Yule 1996]Để một hành vi ngôn ngữ được thực hiện như đã định theo Austin[1962] cần phải có một số điều kiện được gọi là điều kiện thuận lợi [felicityconditions]. Đó là điều kiện chung [general conditions] cho người tham giagiao tiếp quy định họ phải hiểu ngôn ngữ đang sử dụng, họ không đóng kịchhoặc nói chơi. Tiếp đến là điều kiện nội dung [content conditions] quy địnhcác điều cần thiết cụ thể cho việc thực hiện hành vi ngồn ngữ [như một lời hứathì nội dung phát ngôn phải là về một sự kiện tương lai chứ không thể quákhứ].Theo Searle [1969] nên chia các điều kiện thuận lợi thành 3 loại chính làđiều kiện ban đầu [preparatory conditions], điểu kiện chân thực [sincerity50 conditions] và điều kiện thiết yếu [essential conditions]. Yule [1996] cũng tánthành cách chia này và trình bày lại các ý kiến của Searle một cách ngắn gọnnhư sau: Điều kiện ban đầu quy định những gì liên quan đến sự cần thiết đểhành động ngôn ngữ được thực hiện [như mệnh lệnh thì người phát ngôn phảiở vị thế cao hơn, có quyền đủ để buộc người nghe thực hiện việc trong mệnhlệnh]. Điều kiện chân thực là điều kiện quy định người nói phải chân thànhtrong nội dung phát ngôn: hứa thì thực sự có ý định thực hiện điều hứa, ra lệnhthì thực sự tin là mình có quyền ra lệnh và người nói sẽ chấp hành. Điều kiệnthiết yếu quy định trách nhiệm và sự ràng buộc của người nói. Ví dụ khi hứahẹn bằng lời, người nói đã gắn vào mình trầch nhiệm thực hiện lời hứa, chuyểntừ trạng thái "không bị ràng buộc" sang trạng thái "bị ràng buộc". Khi ra lệnh,trách nhiệm và sự ràng buộc này bị gắn vào người nghe, nghĩa là người nghephải thực hiện nó hoặc bị ràng buộc phải thực hiện nó.2.1.2.Động từ ngữ vi và cảu ngữ vi - phương tiên ngôn ngữ góp phầnbiên văn bản thành quy phạm pháp luậtTất cả các dự luật đều phải được Quốc hội thông qua và Chủ tịch nướccông bố, ban hành thì mới trở thành luật và có giá trị luật pháp. Trước đó khichỉ là các dự luật, dù có hoàn hảo và đúng đắn, phù hợp đến mấy cũng khôngthể là các quy phạm pháp luật cho một xã hội tuân thủ. Việc biến một văn bảndự luật thành các quy phạm pháp luật phải qua một quy trình nhất định, trongđó có một khâu rất quan trọng và cũng là khâu cuối cùng là lệnh công bố Bộluật của Chủ tịch nước.Ta thấy mở đầu các Bộ luật đều là phần Lệnh cône bố Bộ luật, ví du Bôluật Dân sự của nước CHXHCN Việt Nam mở đầu như sau :51ìn CHỦ TỊCH NƯỚCCỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập - Tự do - H ạnh phúcS ố : 44L/CTNLỆNHCHỦ TỊCHNƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM- Căn cứ vào Điều 103 và Điều 106 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩaViệt Nam năm 1992;- Căn cứ vào Điều 78 của Luật tổ chức Quốc hội;NAY CÔNG BỔ :Bộ luật Dân sự của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Nghị quyếtvề việc thi h àn h Bộ luật Dân sự đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa ViệtNam khoá IX, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 28 tháng 10 năm 1995.Hà Nội, ngày 9 tháng 11 năm 1995CHỦ TỊCHNƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐ ã kýLê Đức AnhNhìn từ góc độ ngôn ngữ học, ta thấy Lệnh công bố Bộ luật trên có hiệulực nhờ động từ ngữ vi "công bô" được đưa vào phát nsôn và phát neôn đươc“ngôn hành” hoá nhờ từ nay và ngồi thứ nhất “Chủ rịch nước CHXHCN ViệtNarrì\ “đã k ỷ \ Phát ngôn này biểu hiện hành vi ngôn trung "công bố", thuộcnhóm Tuyên bố [Declaration] theo phân loại của Searle nói trên. Việc Chủ tịchnước công bố Bộ luật [tức là làm cho một dự luật chính thức trở thành luậtpháp] đã được thực hiện bới hành động nói ra. Thực chất, theo Austin [đã dán].52 thì hành động ngôn ngữ ở đây là một hành động xã hội: việc nói ra bằng lờicũng chính là việc thực hiện hành động công bố Bộ luật. Việc chính thức tuyênbố [bởi Chủ tịch nước] là Bộ luật đã được Quốc hội thông qua và cồng bố nóđã biến toàn bộ văn bản sau đó thành luật pháp.Ta hãy xem xét tư cách của động từ ngữ v i "công bô1 trong văn bản ưên'theo các tiêu chí mà Searle đã đề ra.Thứ nhất, để phân biệt câu ngữ vi với câu trần thuật, câu chứa động từngữ vi phải có chủ ngữ là "tôi" và bổ ngữ của động từ ngữ vi phải ở ngôi thứhai. Trong văn bản trên, động từ "công bô11 dường như xuất hiện trong bối cảnhđặc biệt khác lạ. Cả văn bản là một câu trong đó chủ ngữ là "Chủ tịch nướcCHXHCN Việt Nam" và vị ngữ là "công bố". Nhưng thực ra hoàn toàn đókhông phải là câu trần thuật vì nó có thể được diễn đạt bằng cách khác màkhông làm thay đổi ý như sau : "Tôi, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam,người ký dưới đây, công b ố Bộ luật Dân sự của nước CHXHCN Việt Nam...".Như vậy đây là câu ngữ vi mà người phát, là Chủ tịch nước và người nhận làtoàn thể công dân Việt Nam - đối tượng điều tiết của Bộ luật. Một bằng chứngnữa là khi đề nghị cách kiểm nghiệm động từ ngữ vi trong tiếng Anh Austin[1962] cũng đưa ra cách dùng trạng từ hereby đế thử. Động từ nào đi được vớihereby sẽ là động từ ngữ vi, động từ nào không sẽ là động từ thường. Các bảndịch sang tiếng Anh của Lệnh công bố Bộ luật đều cho thấy người dịch đãchuyển cả cụm "nay công bố11 trong tiếng Việt thành "Hereby promulgates"tức là thêm trạng từ "hereby" vào trước động từ ngữ vi "promulgate" một cáchrất tự nhiên. Như vậy có thể suy ra "nay" cũng là yếu tố kiểm nghiệm độn 2 từngữ vi trong tiếng Việt, như trong các kết hợp "nay sức", "nay ban bố", "naythông cáo", "nay xin cam đoan". Theo nhiều nhà nghiên cứu [Nơuvễn ĐứcDân [1998: 38] chẳng hạn] hành động ngữ vi được thể hiện ớ ngav lúc nói cho53 nên động từ ngữ vi luôn ở thời hiện tại, nó không đi kèm với các từ "đã, đang,sẽ, vừa...". Trạng từ "nay" phải chăng là yếu tố làm hiểu minh trạng thái hiệntại của hành động ngữ vi ?Cũng có thể hiểu "nay" đưa vào trước động từ ngữ vi để có thể lược bỏchủ ngữ "tôi” và câu mang bản chất của câu ngữ vi. Ví dụ : các câu "Tôi xinhứa", "Tôi xin cam đoan" và "Nay xin hứa", "Nay xỉn cam đoan" chỉ là một.Như vậy trong Lệnh công bố Bộ luật cụm từ "Chủ tịch nước CHXHCN ViệtNam " vừa là một tiêu đề cho biết chức danh, nhân thân của người công bốLuật vừa là chủ ngữ thay cho “/ới”, còn "Nay công bô" chính là động từ ngữvi, phần xen giữa “ - Căn cứ vào Điều“ nêu điều kiện ban đầu cho hànhđộng ngữ vi công bố luật pháp.Thứ hai là các điều kiện thuận lợi [Felicity Conditions] của các câu ngữvi. Ta thấy ở đây phát ngôn trên [Lệnh công bố Bộ luật Dân sự] hoàn toàn đápứng các điều kiện thuận lợi mà Austin đã chỉ ra. Hãy xem xét điều kiện banđầu [preparatory conditions] của câu ngữ vi trên. Người công bố là Chủ tịchnước là người có thẩm quyền - thay, mặt Nhà nước công bố luật theo quy địnhcủa Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam. Người nói đại diện cho quyền lựccao nhất trong xã hội và người nghe là các công dân bình thường. Như vậykhoảng cách giữa các vai trong giao tiếp là đầy đủ cho việc thực hiện hành vingôn trung công bố luật pháp.Theo bảng tổng kết các đặc điểm cơ bản của các loại hành động ngữ vitrên của Searle, nhóm "Tuyên bố" [Declaration] có mẫu là s gây ra X, tức làxét về hướnơ của sự khớp ghép giữa lời nói [từ ngữ] với thực tại là "từ ngữthay đổi thực tại". Như vậy có thể nói hành vi nsôn trung "công bố" của Chủtịch nước có chức năng làm thay đổi thực tại. Nói cách khác là nỏ gây ra mộtsự kiện mới trong ĩhế giới thực tại: một bộ luật bát đáu có hiệu lực, một văn54 bản đã trở thành quy phạm pháp luật. Phương tiện trực tiếp quan trọng để thựchiện một khâu trong quá trình biến văn bản thành quy phạm pháp luật là độngtừ ngữ vi và câu ngữ vi.2.1.3. Câu ngữ vi - phương tiện ngôn ngữ góp phần tạo tính hànhthực cho văn bản luật pháp tiếng ViệtPhần này xét tiếp vai trò của câu ngữ vi trong văn bản luật pháp tiếngViệt. Trước hết nếu coi phần Lệnh công bố Bộ luật biến toàn bộ văn bản sauđó thành luật thì có nghĩa là nó có vai trò tạo khung và bao trùm, vai trò củamột hành động ngữ vi vĩ mô [a macro speech act] như cách gọi của Van Dijk[1977 - dẫn theo Maley 1994] và các điều khoản ở các phần sau trong Bộ luậtcũng mang tính hành thực [performativity] theo nghĩa là nó mang bản chất củanhững mệnh lệnh bắt buộc phải thực hiện đối với người tiếp nhận.Nói một cách cụ thể hơn, nếu chấp nhận quan điểm của Austin [1962]và Searle [1969] về câu ngữ vi [tất cả các câu có giá trị ngôn trung đều là câungữ vi] thì trong văn bản luật pháp các câu trong các điều khoán của quy phạmcấm đoán, quy phạm bắt buộc và quy phạm tuỳ nghi đều mang bản chất củacác câu ngữ vi - tức là có giá trị ngôn trung của hành vi ngôn trung như : mệnhlệnh bắt buộc, cưỡng bức, cấm đoán, cho phép thuộc nhóm hành vi ngôn trungkhuyến lệnh [directive]. Thực chất thì văn bản luật pháp, theo cách nhìn này,là văn bản ghi lại quá trình giao tiếp giữa một bên là đại diện cho quvền lực tốicao của cộng đồng [Quốc hội] với một bẽn là các công dân. Bên phát ngôn[Quốc hội] thực hiện các hành vi ngôn trims ra lệnh, bắt buộc, cấm đoán, chophép qua văn bán luật pháp và gắn các trách nhiệm, quvền và nghĩa vụ vàophía nsười nhận là các công dân, cũng tức là quy định cho họ quyền và nshĩavụ qua văn bản luật pháp.55h Bản chất "mệnh lệnh" này của các điều khoản trong văn bản luật phápsẽ được bàn kỹ hơn ở phần sau khi xem xét vai trò của tình thái trong việc tạolập quyền và nghĩa vụ trong văn bản luật pháp tiếng Việt.2.2.Tình thái - phương tiện ngôn ngữ quan trọng góp phần tạo lậpquyền và nghĩa vụ trong văn bản luật pháp tiếng Việt2.2.1. Giới thiệu2.2.1.1. Vê tình thái trong ngôn ngữTinh thái là một vấn đề rất rộng và còn chưa được xác định rõ. Nó đangthu hút mối quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực như logichọc, ký hiệu học và ngôn ngữ học.Tinh thái trong ngôn ngữ đã được nghiên cứu từ lâu. Bally đã phân biệttrong một mệnh đề gồm một phần là ngôn liệu [Dictum] và phần thái độ củangười nói [modus] và khẳng định modus là phần tình thái, là linh hồn cúa câu,của văn bản và của cả hoạt động giao tiếp [theo Hoàng Tuệ 1988].Về khái niệm tình thái, nhiều nhà nghiên cứu uy tín trong lĩnh vực nàynhư Von Wright [1951], Lyon [1977], Givón [1989], Palmer [1990] v.v... đềucho rằng đó là thái độ của người nói đối với điều được nói ra, đối với hoàncảnh phát ngồn và với thực tế.Tuy vậy, do bản chất phức tạp, chưa rõ ràng của ván đề nên trong giới nghiêncứu vẫn chưa có sự thống nhất về một số mặt quan trọng liên quan đến tình thái nhưcác kiểu loại ý nghĩa tình thái, cách phân chia phạm trù tình thái v.v...Các nhà nghiên cứu tình thái dựa trên logic học loại trừ chủ quan củangười nói ra khỏi tình thái và họ chia nội dung phạm trù tình thái ra thành 3loại: 1] Mức độ có thể, 2] Mức độ tất yếu và 3] Hiện thực - phi hiện thực.Khi lý thuyết hành vi lời nói của Austin ra đời, tình thái được hiẽu rộnghơn. Các tác giả từ Searle [1977] đến Palmer [1990], Cao Xuân Hạo [1991],56 Sweetser [1993] cho rằng ngoài tình thái của lời phát ngôn là thái độ đánh giácủa người nói về nội dung phát ngôn còn phải xét đến tình thái của hoạt độngphát ngôn là mục đích phát ngôn [như trần thuật, nghi vấn, mệnh lệnh ...]Trước tình hình như vậy, luận án này chấp nhận cách hiểu và phân loạitình thái của Palmer [1986, 1990] vì theo chúng tôi đây là cách tiếp cận tìnhthái mang tính khái quát cao và tương đối rõ ràng, phù hợp với việc nghiên cứucác phương tiện biểu hiện tình thái trong văn bản luật pháp.Cách phân loại tình thái của Palmer [1986] xuất phát từ sự phân loại thái[modes] của Von Wright [1951] trong nghiên cứu logic tình thái :1] Thái Suy định [Alethic], hay còn được gọi là thái Chân lý2] Thái Nhận thức [Epistemic], hay còn được gọi là thái Hiểu biết3] Thái Chức phận [Deontic], hay còn được gọi là thái Đạo nghĩa4] Thái Tồn tại [Existential], hay còn được gọi là thái Hiện tồnCác khả năng trên được chi tiết hoá như dưới đây :57 Suy địnhNhận thứcChức phậnTổn tại[Alethic][Epistemic][Deontic][Existential]Cần yếuMinh xácBắt buộcPhổ quát[Necessary][Verified]. [Obligatory][Universal]Khả năngĐược phépHiện tổn[Possible][Permitted][Existing]Không chắcKhông rõBàng quan[Contingent][Undecided][Indifferent]Không thểNgụy tạoCấm đoánTrốn 2 không[Impossible][Falsfied][Forbidden][Empty]B ả n g 5: Phân loại tình thái của Von Wright [Nguồn: Palmer 1990]Palmer [1990] lập luận rằng Thái suy định dù hay được xét đến tronglogic học nhưng trong ngôn ngữ học nó lại không có ý nghĩa lớn, còn tháiTồn tại lại không thuộc phạm vi của ngôn ngữ học mà thuộc lý thuyết địnhlượng. Do vậy tác giả đã đề nghị chỉ nên xét đến hai loại thái có ý nghĩa lớnnhất trong ngôn ngữ học là thái Nhận thức [Epistemic] và thái Chức phận[Deontic]. Palmer cũng đề nghị thay Không rõ [Undecided] thuộc thái Nhậnthức bằng Khả năng [Possible] cho phù hợp hơn với cách dùng trong ngôn ngữbình thường. Như vậy theo cách phàn loại này thì Khả năng là thuộc về tháiNhận thức chứ không thuộc thái Suy định như cách phân loại của Von Wright.Ngoài ra Palmer cũng xét đến một loại thái khác do Von Wright [1951] đềxuất là thái Năng động là tình thái hướng tới chủ ngữ [subject - oritented], loạitình thái nêu ý nguyện và khuynh hướng của chủ ngữ câu.Như vậy, theo quan điểm của Palmer [1986, 1990] thì cần xét đến baloại tình thái trong ngôn ngữ tự nhiên là tình thái Nhận thức [Epistemic], tìnhthái Chức phận [Deontic] và tình thái Năng động [Dynamic]. T r o n s đó, tìnhthái Nhận thức là quan điểm của người nói về nội dung câu xét trên khía cạnhđúng sai [hướns tới thế giới hiểu biết, luận lý], tình thái Chức phận là thái độcủa người nói về nội dung câu nói xét theo khía cạnh đạo lv, nshĩa vụ [đạo58

Video liên quan

Chủ Đề