Điểm giống nhau giữa kiểm tra và đánh giá

Giám sát và Đánh giá là hai công cụ quản lý giúp kiểm soát các hoạt động kinh doanh cũng như nâng cao hiệu suất. Giám sát đề cập đến một quy trình có tổ chức giám sát và kiểm tra các hoạt động được thực hiện trong một dự án, để xác định xem nó có khả năng đạt được kết quả theo kế hoạch hay không. Ngược lại, đánh giá là một quy trình khoa học đánh giá sự thành công của dự án hoặc chương trình trong việc đáp ứng các mục tiêu.

Sự khác biệt chính giữa giám sát và đánh giá là trong khi giám sát là một hoạt động liên tục, được thực hiện ở cấp quản lý chức năng, đánh giá là một hoạt động định kỳ, được thực hiện ở cấp độ kinh doanh. Để có thêm một số khác biệt về hai điều này, hãy xem bài viết được trình bày dưới đây.

Nội dung: Giám sát Đánh giá Vs

  1. Biểu đồ so sánh
  2. Định nghĩa
  3. Sự khác biệt chính
  4. Phần kết luận

Biểu đồ so sánh

Cơ sở để so sánhGiám sátĐánh giá
Ý nghĩaGiám sát đề cập đến một quy trình thường xuyên, kiểm tra các hoạt động và tiến độ của dự án và cũng xác định các tắc nghẽn trong quá trình.Đánh giá là một hoạt động lẻ tẻ được sử dụng để đưa ra kết luận về mức độ phù hợp và hiệu quả của dự án hoặc chương trình.
Có quan hệ vớiQuan sátPhán quyết
Xảy ra tạiCấp độ hoạt độngCấp độ kinh doanh
Quá trìnhThời gian ngắnLâu dài
Tập trung vàoNâng cao hiệu quảNâng cao hiệu quả
Tiến hành bởiĐảng nội bộBên trong hoặc bên ngoài

Định nghĩa giám sát

Giám sát là quá trình quan sát và ghi chép có hệ thống một cách thường xuyên, các hoạt động được thực hiện trong một dự án, để đảm bảo rằng các hoạt động phù hợp với mục tiêu của doanh nghiệp.

Giám sát có tính đến việc sử dụng tối ưu các nguồn lực, để hỗ trợ các nhà quản lý trong việc ra quyết định hợp lý. Nó theo dõi tiến trình và kiểm tra chất lượng của dự án hoặc chương trình theo các tiêu chí đã đặt ra và kiểm tra việc tuân thủ các tiêu chuẩn đã thiết lập.

Thông tin được thu thập trong quá trình giám sát giúp phân tích từng khía cạnh của dự án, để đánh giá hiệu quả và điều chỉnh đầu vào bất cứ khi nào cần thiết.

Định nghĩa đánh giá

Đánh giá được định nghĩa là một phân tích khách quan và nghiêm ngặt của một dự án đang tiếp tục hoặc đã hoàn thành, để xác định tầm quan trọng, hiệu quả, tác động và tính bền vững của nó bằng cách so sánh kết quả với bộ tiêu chuẩn. Đó là quá trình chuyển phán quyết giá trị liên quan đến mức độ thực hiện hoặc đạt được các mục tiêu đã xác định.

Nói tóm lại, đánh giá là một quá trình đánh giá, kiểm tra và đo lường nghiêm túc việc thiết kế, thực hiện và kết quả của dự án hoặc chương trình, theo mục tiêu. Nó có thể được tiến hành cả định tính và định lượng, để xác định sự khác biệt giữa kết quả thực tế và mong muốn.

Sự khác biệt chính giữa giám sát và đánh giá

Sự khác biệt giữa giám sát và đánh giá có thể được rút ra rõ ràng trên các tiền đề sau:

  1. Bằng cách giám sát có nghĩa là một quy trình thường xuyên, xem xét kỹ lưỡng các hoạt động và tiến độ của dự án và cũng tìm ra những sai lệch xảy ra trong khi thực hiện dự án. Ngược lại, đánh giá là một hoạt động định kỳ đưa ra những suy luận về mức độ phù hợp và hiệu quả của dự án hoặc chương trình.
  2. Trong khi bản chất giám sát là quan sát, đánh giá là phán đoán.
  3. Giám sát là một hoạt động cấp hoạt động, được thực hiện bởi các giám sát viên. Mặt khác, đánh giá là một hoạt động cấp độ kinh doanh được thực hiện bởi các nhà quản lý.
  4. Giám sát là một quá trình ngắn hạn, liên quan đến việc thu thập thông tin liên quan đến sự thành công của dự án. Ngược lại, đánh giá là một quá trình lâu dài, nó không chỉ ghi lại thông tin mà còn đánh giá kết quả và tác động của dự án.
  5. Giám sát tập trung vào việc cải thiện hiệu quả tổng thể của dự án, bằng cách loại bỏ các nút thắt cổ chai, trong khi dự án đang trong quá trình. Không giống như, đánh giá nhấn mạnh vào việc cải thiện hiệu quả của dự án, bằng cách so sánh với các tiêu chuẩn được thiết lập.
  6. Giám sát thường được thực hiện bởi những người trực tiếp tham gia vào quá trình thực hiện. Ngược lại, việc đánh giá có thể được thực hiện bởi các nhân viên nội bộ của tổ chức, tức là các nhà quản lý hoặc nó cũng có thể được thực hiện bởi bên ngoài độc lập, những người có thể đưa ra quan điểm khách quan của họ về dự án hoặc chương trình.

Phần kết luận

Trong các dự án phát triển, giám sát và đánh giá đóng vai trò đa dạng, theo nghĩa là giám sát là một quá trình đang diễn ra, trong khi việc đánh giá được thực hiện định kỳ. Hơn nữa, trọng tâm của đánh giá cũng phân biệt hai loại, tức là giám sát là tất cả về những gì đang xảy ra, đánh giá liên quan đến việc nó đã xảy ra tốt như thế nào.

Trình bày quan điểm của thầy cô về thuật ngữ “kiểm tra và đánh giá”?

Trả lời:

Quan điểm của tôi về thuật ngữ “kiểm tra và đánh giá” là: Dựa vào cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng [theo định hướng tiếp cận năng lực] từng môn học, hoạt động giáo dục từng môn, từng lớp; yêu cầu cơ bản cần đạt về kiến thức, kĩ năng, thái độ [theo định hướng tiếp cận năng lực] của HS của cấp học.

Phối hợp giữa đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì, giữa đánh giá của GV và tự đánh giá của HS, giữa đánh giá của nhà trường và đánh giá của gia đình, cộng đồng.

Kết hợp giữa hình thức đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan và tự luận nhằm phát huy những ưu điểm của mỗi hình thức đánh giá này.

Có công cụ đánh giá thích hợp nhằm đánh giá toàn diện, công bằng, trung thực, có khả năng phân loại, giúp GV và HS điều chỉnh kịp thời việc dạy và học.

Cả 2 cách đánh giá đều theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực HS chú trọng đến đánh giá quá trình để phát hiện kịp thời sự tiến bộ của HS và vì sự tiến bộ của HS, từ đó điều chỉnh và tự điều chỉnh kịp thời hoạt động dạy và hoạt động học trong quá trình dạy học.

Nhưng đánh giá hiện đại có phần ưu điểm hơn vì đảm bảo chất lượng và hiệu quả của đánh giá kết quả học tập theo tiếp cận năng lực đòi hỏi phải vận dụng cả 3 triết lí: Đánh giá vì học tập, Đánh giá là học tập, Đánh giá kết quả học tập

Skip to content

Thanh tra, kiểm tra là hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong quản lý nhà nước. Nhiều người nghĩ rằng hai hoạt động này là một. Thực tế chúng là hai khái niệm khác nhau, hoạt động tương trợ lẫn nhau.  Trong đó, thanh tra có phạm vi hẹp hơn kiểm tra. Bài viết dưới đây sẽ giúp các bạn phân biệt thanh tra, kiểm tra khác nhau như thế nào.  

Vai trò và mối quan hệ của thanh tra, kiểm tra

Trong công tác quản lý nhà nước nói chung, bên cạnh các hoạt động quản lý thì việc thanh tra, kiểm tra cũng được thực hiện nhằm đánh giá mức độ thực hiện chính sách pháp luật, đảm bảo tính công khai, minh bạch, đúng theo quy định của Pháp luật hiện hành. Có thể nói, thanh tra, kiểm tra là công cụ mang tính phản biện chu trình quản lý nhà nước. Thông qua hai hoạt động này, cơ quan quản lý nhà nước có thể phân tích, đánh giá khách quan các mục tiêu, nhiệm vụ quản lý đề ra.

Theo quy định, thanh tra, kiểm tra là hai hoạt động riêng biệt, chúng có mối quan hệ chặt chẽ, hoạt động tương trợ với nhau. Không ít người nhầm lẫn hai khái niệm này và đánh đồng chúng là một.

Thanh tra và kiểm tra có nhiều điểm khác nhau

Phân biệt khái niệm thanh tra, kiểm tra

Khái niệm thanh tra

Theo từ điển Tiếng Việt thì thanh tra là kiểm tra, xem xét tại chỗ, khách quan các hoạt động của cơ quan, đơn vị. Trong đó, nhiệm vụ thanh tra thực hiện bởi các cơ quan nhà nước có trách nhiệm liên quan. Tuy nhiên, để triển khai nhiệm vụ, thanh tra sẽ được đồng thực hiện bởi  bộ máy chuyên môn và sự giám sát của người dân. Vì thế, các Cơ quan Thanh tra có nhiệm vụ nhận, xem xét và giải quyết, phản hồi các đơn thư khiếu nại, tố cáo từ quần chúng gửi đến. Hiện nay, ngoài thanh tra nhà nước còn có các đơn vị Thanh tra chuyên ngành hoạt động song song như thanh tra giao thông, thanh tra tư pháp, thanh tra tài nguyên khoáng sản, đất đai.

Khái niệm kiểm tra

Từ điển Tiếng Việt nêu rõ, kiểm tra là hoạt động xem xét, phân tích tình hình thực tế từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá khách quan, đúng mực. Công tác kiểm tra được thực hiện bởi mọi chủ thể quản lý, không có sự phân biệt các cấp. Tuy nhiên mỗi cấp bậc khác nhau sẽ có quy mô kiểm tra, nội dung kiểm tra khác nhau nhằm đảm bảo tính hợp lý và năng lực nhận định vấn đề.

Như vậy, nhìn từ khái niệm rõ ràng thanh tra có phạm vi hẹp hơn hoạt động kiểm tra. Trong đó, chủ thể thực hiện công tác thanh tra sẽ là các đơn vị nhà nước được phân quyền. Chủ thể thực hiện của kiểm tra được mở rộng là mọi chủ thể quản lý. Tuy nhiên, trong quản lý nhà nước hiện nay còn có sự hoạt động của kiểm tra nhà nước nhằm giám sát việc chấp hành kỷ luật nhà nước, kỷ luật lao động, pháp chế và những quyền hạn của công dân.  

Công tác thanh tra được thực hiện bởi cơ quan nhà nước

Phân biệt hoạt động thanh tra, kiểm tra

Chủ thể tiến hành

  • Thanh tra: chủ thể tiến hành là Nhà nước
  • Kiểm tra: chủ thể có thể là Nhà nước hoặc các đoàn thể như Đảng, Công Đoàn, Mặt trận, tổ chức Phụ nữ, tổ chức Đoàn Thanh niên hoặc nội bộ một tổ chức được thành lập trong doanh nghiệp nhà nước, các tập đoàn tư nhân.  

Mục đích thực hiện

  • Thanh tra: Mục đích thực hiện của thanh tra là nhằm phát hiện những sai phạm, sơ hở trong cơ chế quản lý chính sách nhà nước, pháp luật. Từ đó Ban Thanh tra sẽ đưa ra kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hướng xử lý cũng như  giải pháp khắc phục. Với mục đích này, hoạt động thanh tra giúp phát hiện, xử lý các hành vi sai phạm đồng thời phát huy nhân tố tích cực, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước.
  • Kiểm tra: Mục đích thực hiện của kiểm tra nhằm đánh giá đúng người đúng việc, từ đó đưa ra chủ trương, phương hướng phù hợp với tình hình thực tiễn. Có thể nói, hoạt động kiểm tra mang ý nghĩa xem xét để điều chỉnh nhằm đạt kết quả tốt hơn.

Phương pháp tiến hành

  • Thanh tra: Hoạt động thanh tra được tiến hành bằng nghiệp vụ sâu nhằm đi đến tận cùng của vấn đề để giải quyết triệt để, tạo sự răn đe trong xã hội. Các hoạt động bao gồm xác minh thông tin, thu thập chứng cứ, đối thoại trực tiếp, chất vấn và những giám định cụ thể.
  • Kiểm tra: Phương pháp tiến hành của hoạt động kiểm tra dựa trên một số công cụ như bảng tiêu chuẩn công việc, nội quy, quy chế Pháp luật, các công cụ kỹ thuật như biểu đồ, Pert

Phương pháp tiến hành

  • Thanh Tra: Thanh tra bắt buộc phải có tiến trình bao gồm công bố quyết định thanh tra, thu thập thông tin liên quan; kiểm tra – xác minh thông tin; báo cáo tiến độ thực hiện; gia hạn thời gian thanh tra [nếu có]; công bố kết quả; kết thúc quá trình thanh tra
  • Kiểm tra: Có thể kiểm tra trực tiếp, gián tiếp; kiểm tra khâu trọng điểm, kiểm tra chéo giữa các bộ phận; kiểm tra ngẫu nhiên; kiểm tra bộ phận và toàn bộ…Tất cả nhằm đạt được kết quả kiểm tra khách quan nhất.

Thời hạn tiến hành

  • Thanh tra: Theo Luật Thanh tra quy định về thời hạn tiến hành cụ thể:
    • Thanh tra Chính phủ tiến hành không được kéo dài quá 60 ngày với trường hợp bình thường, không quá 90 ngày với những trường hợp kéo dài, trường hợp đặc biệt có thể gia hạn nhưng không được quá 150 ngày. 
    • Thanh tra tỉnh, thanh tra bộ tiến hành kéo dài không quá 45 ngày, trường hợp đặc biệt không quá 70 ngày.
    • Thanh tra huyện, thanh tra Sở xử lý các trường hợp không quá 3 ngày. 
    • Riêng với những khu vực đặc thù như miền núi, biên giới, hải đảo, thời hạn thanh tra được linh động tính từ ngày công bố quyết định thanh tra đến ngày kết thúc việc thanh tra theo quyết định của người ra thanh tra ban hành.
  • Kiểm tra: Thời hạn tiến hành không giới hạn thời gian cụ thể, có thể dựa theo tính chất vụ việc để đưa ra thời hạn cuối cùng.

Trình độ nghiệp vụ

  • Thanh tra: Thanh tra viên phải được đào tạo, có nghiệp vụ, nắm rõ các quy định Pháp luật và am hiểu về các lĩnh vực mà mình thực hiện thanh tra. Thanh tra viên phải lập được kế hoạch làm việc, có sự phối hợp nhịp nhàng với các đơn vị, cá nhân nhằm đạt được kết quả thanh tra tốt nhất. 
  • Kiểm tra: Người thực hiện công tác kiểm tra không quá khắt khe về trình độ nghiệp vụ. Tuy nhiên đối với những nội dung phức tạp đòi hỏi người có trình độ học vấn, kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực để phân tích các vấn đề, nhìn nhận tình huống đưa ra kết quả xác đáng nhất. 

Phạm vi hoạt động 

  • Thanh tra: Nội dung thanh tra phức tạp, nhiều lớp công việc, quy mô mang tính toàn ngành. Vì thế hoạt động thanh tra trước khi tiến hành đòi hỏi có kế hoạch được phê duyệt cụ thể.
  • Kiểm tra: Phạm vị hoạt động rất đa dạng, diễn ra liên tục với nhiều diễn biến khác nhau. 

Sự phân biệt sự khác nhau giữa thanh tra, kiểm tra có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện chế định pháp luật Nhà nước đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước. Tuy nhiên, các chuyên gia về quản lý nhà nước khẳng định việc phân biệt thanh tra và kiểm tra trong các hoạt động quản lý nhà nước chỉ mang tính tương đối. Sự linh động trong nhìn nhận khái niệm sẽ giúp hoạt động triển khai trong thực tiễn diễn ra nhanh chóng, thuận lợi. Bởi thực tế các hoạt động thanh tra và kiểm tra đôi khi lồng ghép, bao hàm lẫn nhau. 

Điều quan trọng nhất là những Thanh tra viên, Kiểm tra viên cần có chuyên môn, kỹ năng làm việc đồng thời nhìn nhận, xử lý vấn đề một cách công tâm, khách quan, tránh làm sai lệch vấn đề dẫn tới nhìn nhận không đúng người đúng việc.

Video liên quan

Chủ Đề