Tinh hệ “Thiên cơ Thái âm” thủ Mệnh ở hau cung Dần hoặc Thân, mà Thiên cơ hóa Khoa thì Thái âm ắt sẽ đồng thời hóa Lộc. Tham khảo ở đoạn thuật “Thái âm hóa Lộc”.
Tinh hệ “Thiên cơ Cự môn” thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thiên cơ hóa Khoa thì Cự môn đồng thời hóa Kị, lại còn gặp Sát tinh. Tam phương hội hợp có Thiên đồng hóa Quyền ở cung Tài bạch, và phải vay mượn mượn tinh hệ “Thái dương Thái âm” để nhập cung Sự nghiệp, có Thái âm hóa Lộc. Tinh hệ kết cấu dạng này cũng tụ lập đủ tứ hóa diệu, nhưng do Thiên cơ và Cự môn đồng độ, có Hóa Khoa và Hóa Kị cùng bay đến, do đó có khác với Thiên cơ hóa Khoa ở hai cung Tí hoặc Ngọ. Ngoại trừ việc phải nhấn mạnh tính chất “dùng lời nói để kiếm tiền” ra, thì vẫn rất khó tránh khỏi thị phi, hao tâm tổn thần, phải vất vả nói năng cũng là đặc trưng của nó. Tinh hệ này cũng có sắc thái trôi nổi, không thiết thực, cho nên nhất là phái nữ không nên có mệnh cục này thủ Mệnh. Ở đại hạn hoặc lưu niên gặp tổ hợp sao này, cần phải đề phòng điều tiếng thị phi, “khoa trương” và “điều tiếng” sẽ cùng đến, nhất là “khoa trương” có tính chất xu phụ thường bị người ta chỉ trích.
Thiên cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa khoa ở hai cung Tỵ hoặc Hợi, ắt sẽ đồng thời có Đà la đồng độ hoặc Kình dương Đà la giao hội, đối cung là Thái âm hóa Lộc. Tam phương hội cung có “Thiên đồng Cự môn” ở cung Tài bạch, phân ra một sao hóa Quyền một sao hóa Kị, và vay mượn “Thái dương Thiên lương” để nhập cung Sự nghiệp. Nhóm tinh hệ này có cách cục cao hay thấp, là do tính chất của Thái dương và Thiên lương đồng độ quyết định, ở cung Mão thì tốt hơn ở cung Dậu, sẽ gây ảnh hưởng đến Thiên cơ hóa Khoa, ở cung Tỵ cũng tốt hơn cung Hợi. So sánh hai cung độ, thì cung Hợi chỉ chủ về hư danh, cung Tỵ được thiết thực hơn. Tam phương hội “Thiên đồng Cự môn”, nên không chủ về “dùng lời nói để kiếm tiền”, mà chỉ chủ về “có điều thầm kín khó nói về tình cảm” ràng buộc rất sâu đậm. Tinh hệ này biểu trưng cho hiện tượng “chậm phát”, nhất là ở cung Hợi thì càng nghiệm. Then chốt chủ yếu là ở vận trình Phá quân nhập cung Mệnh của vận hạn. Do vì Thiên cơ có tính chất hiếu động, trôi nổi, còn Phá quân thì chủ về khai sáng, có thể khai sáng thành công hay không? phải xem các sao Phụ diệu, Tá diệu hội hợp mà định. Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, thông thường chủ về danh dự và tài lộc song thu, nhưng phải không gặp các sao Sát – Hình thì mới đúng.
Trước hết nói về Thiên Cơ Cự Môn đồng cung tức là cách Cơ Cự đồng lâm. Cách này có những nét đặc thù, không thể không chú ý. Cổ ca viết:”Với Cự Môn đứng chung, khả dĩ vào vũ chức nơi biên ải, cần phải thêm Quyền phùng Sát để lập công danh”. Như thế cổ ca muốn nói rằng Cơ Cự được Hóa Quyền, mà gặp Tứ Sát không phải ở bản tam cung mà ở tam hợp chiếu, chủ quí hiển về võ chức.
Thiên Cơ Cự Môn đông cung tại Mão Dậu, Mão tốt hơn Dậu. Thiên Cơ thuộc Mộc, tại Dậu bị Kim khắc chế, ở Mão đọc vượng khí của Mộc.
Cự Cơ cũng có khuyết điểm, dễ thành sốc nổi, không thiết thực, còn có tệ hại là học nhiều mà không thành. Cự Cơ giao du với quân tử tự nhiên sẽ có phong khí thanh cao tiết nghĩa.
Sắc thái này tạo ra miệng lưỡi lanh lẹ, phản ứng nhạy bén, làm việc uể oải, dễ có đầu không đuôi. Bị ảnh hưởng của Nhật Nguyệt nên tính người dễ thành lúc nóng lúc lạnh, lại còn tính khí hẹp hòi.
Cơ Cự rất ngại gặp sát kị, dù phú quý cũng không nên có Kình Đà, khiến nhiều thị phi sau lưng. Lúc trẻ nhiều trắc trở, bất đắc chí, suy bại. Nữ mệnh bất lợi hôn nhân, dễ có trở ngại tình cảm.
Cơ Cự gặp Lộc Tồn hoặc Hoá Lộc đối cung, nếu không có sát tinh đều chủ về sự nghiệp biến đổi, được đề bạt, có địa vị cao. Nếu gặp sát tinh chỉ bình thường, vẫn có địa vị. Không cát, chỉ có sát tinh tất cuộc đời nhiều trắc trở.
Nữ mệnh Cơ Cự không nên gặp Hoá Kỵ, dễ sa chân lỡ bước, thích đùa với lửa.
Cung mệnh ở Mão thường vô chính diệu, mượn Cơ Cự tại Dậu thì các sao hội hợp không còn là Nhật Nguyệt Thiên Lương, tính chất có thay đổi. Sự phân biệt này càng có lợi về phát huy tài ăn nói, làm việc mạch lạc lớp lang, nhưng bên trong lại nhiều thủ đoạn, phương diện tình cảm thì lạnh nhạt.
Mệnh cung vào đại hạn hoặc lưu niên, nếu không có cát tinh tất nhiều điều tiếng thị phi. Gặp sao sát kỵ thì không được yên ấm, nhiều phiền muộn. Nếu gặp các sao phụ tá cát thì nên tìm cơ hội thay đổi. Gặp Lộc Tồn Thiên mã đặc biệt tốt cho ra ngoài cầu tài.
Đây là cách ví von thời xưa, thực tế thời nay Cự Cơ hội Quyền Sát cũng chưa chắc đã theo binh nghiệp. Thiên Cơ chủ về đa tài đa nghệ đa học, nhưng khác với đa học của Xương Khúc chủ về thi cử khoa giáp.
Trường hợp Cơ Cự Kị là đặc biệt hơn nữa. Cơ Kỵ là ẩn tàng quá nhiều mà thành ảo tưởng, là thứ ảo tưởng tự tin, mong chờ mà thiếu lực xung kích hoặc thiếu lý lẽ. Có thêm Cự Môn là được bổ đắp cả quyền tinh, sức mạnh và lý luận. Nhưng phải thêm Hóa Khoa, Khôi việt mới ăn thua và kỵ với Thai Phụ Phong Cáo. Có Thai Cáo sẽ tăng tính quyền uy tự hào của Cự Môn, khiến cho giảm tác dụng của cả Hóa Khoa lẫn Thiên Cơ.
Qua kinh nghiệm thì cách cuộc trên mang nhiều biến hóa, nếu Thiên Cơ Hóa Lộc lại không thành võ nghiệp chỉ mưu sinh dư dả phong lưu. Cự Cơ Hóa Lộc mà gặp Hỏa Linh, kể luôn cả chuyện mưu sinh cũng thăng trầm vô độ, hoặc danh lợi hư ảo. Bởi vậy cách Thiên Cơ Cự Môn cần Hóa Quyền hơn Hóa Lộc. Trường hợp bị Hóa Kị kể như hỏng.