Cảm nhận đoạn thơ những em biết không có biết bao người con gái, con trai

Bài làm

Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén, mang màu sắc trữ tình chính hậu, thể hiện tâm tư cảu lớp người tri thức nói riêng và lớp trẻ nói ching về đất nước và con người Việt Nam. Nguyễn Khoa Điềm thể hiện rất thành công với đề tài Đất Nước. Năm 2000 ông được nhận giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Ông có nhiều tác phẩm chính như: Đất ngoại ô, ngôi nhà có ngọn lửa ấm, Mặt đường khát vọng, … Đặc biệt là trường ca Mặt đường khát vọng được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên. Viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiến miền Nam. Đoạn trích Đất Nước là phần đầu chương V của trường ca, là một rong những đoạn thơ hay về đề tài Đất nước trong thơ Việt Nam hiện đại. Tiêu biểu trong Đất Nước có đoạn thơ mà tác giả đã khẳng định vai trò của nhân dân trong việc làm nên lịch sử và truyền thống dựng nước và giữ nước.

“Em ơi em

Hãy nhìn rất xa

Vào bốn ngàn năm Đất Nước

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta

Cần cù làm lụng

Khi có giặc người con trai ra trận

Người con gái trở về nuôi cái cùng con

Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh

Nhiều người đã trở thành anh hùng

Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ

Những em biết không

Có biết bao người con gái, con trai

Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái

Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại”

Trường Ca Mặt đường khát vọng gồm có 9 chương, đoạn trích Đất Nước thuộc phần đầu của chương V. Đoạn trích khái quát tâm tư của tác giả về Đất Nước. Đoạn thơ trên thuộc phần 2 của đoạn trích Đất Nước.

Mở đầu đoạn trích là 3 câu, nhà thơ đã sử dụng tâm tư “Em ơi em” để tìm sự đồng cảm của tất cả mọi người

““Em ơi em

Hãy nhìn rất xa

Vào bốn ngàn năm Đất Nước”

“Em” là nhân vật trữ tình không xác định chủ, cũng là sự phân thân của tác giả để độc thoại với chính mình. Lời tâm tình nặng trĩu suy tư. Với lối tâm tình từ chuyện nhà thơ đã đưa chúng ta về quá khứ, lịch sử 4000 năm Đất Nước.

Tiếp theo là 6 câu khi nghĩ về bốn ngàn năm của Đất Nước, nhà thơ đã rút ra một sự thật đó là: Người làm nên lịch sử không chỉ là những anh hùng nổi tiếng mà là những người dân bình dụ”

“Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta

Cần cù làm lụng

Khi có giặc người con trai ra trận

Người con gái trở về nuôi cái cùng con

Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”

Trong 4000 năm lịch sử Đất Nước, bao thế hệ đi qua đã chiến đấu hi sinh dũng cảm và tên tuổi của họ cả anh và em đều biết nhưng có hàng trăm, hàng triệu con người đã đóng góp, quên mình trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước nhưng không ai nhớ mặt đặt tên. Có thể nói đây cũng là một khái niệm mới về Đất Nước của tác giả. Và từ quan niệm này, Nguyễn Khoa Điềm đã ca ngợi lòng yêu nước của nhân dân. Những con người góp phần làm nên đất nước và bảo vệ đất nước chính là những con người bình dị và vô danh. Họ là những người lao động cần cù, chịu đựng, chịu khó nhưng khi có giặc ngoại xâm thì họ đã trở thành những anh hùng yêu nước. Khi có giặc người con trai ra trận, người con gái nuối cái cày con. Đã thể hiện được sự chung sức chung lòng để cứu nước. Và “ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”, làm ta liên tưởng đến các anh hùng như chị Tịch, Nguyễn Thị Minh Khai,… Từ đó, nhà thơ đã khẳng định truyền thống của dân tộc Việt Nam: Sức mạnh đoàn kết, nhất trí một lòng và có lòng căm thù sâu sắc. Đó là truyền thống lâu đời và đưuọc phát huy từ đời này sang đời khác.

“Nhiều người đã trở thành anh hùng

Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ

Những em biết không

Có biết bao người con gái, con trai

Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”

Nhìn vào lịch sử 4000 năm Đất Nước, nhà thơ đã không nhắc lại các triều đại hay kể tên các bậc vua chúa, các vị anh hùng mà những người được kể tên lại chính là những người vô danh trong cuộc sống giản dị, cống hiến và hi sinh một cách tự nguyện. bằng những câu thơ tuy ngắn ngủi nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định Đất Nước là của nhân dân.

Và nhân dân đã tạo nên, gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau, mọi giá trị văn hóa, tinh thần và vật chất của đất nước như: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói,…

“Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái”

Ở đoạn thơ này, các dòng thơ đều bắt đầu bằng đại từ “họ” kết hợp với các động từ “giữ” “truyền” “gánh” và một loạt các hình ảnh được liệt kê trong câu thơ. Chủ ngữ “họ” được điệp ở đầu các câu thơ đem đến cảm giác về sự đông đảo, có tác dụng làm nổi rõ vai trò chủ đạo của nhân dân đối với đất nước. Nhà thơ đã sử dụng một loạt các hình ảnh vô hình và hữu hình nhưng có ý nghĩa khái quát vô cùng to lớn. Với tư tưởng “Đất Nước là của nhân dân”, tác giả đã khẳng ddingj tất cả những gì do nhân dân làm ra, những gì do nhân dân làm những gì thuộc về nhân dân như “hạt lúa”, “ngọn lúa” “giọng nói” “tên xã” “tên làng”,… cũng như chính những con người vô danh bình dị đó đã góp phần giữ và truyền lại cho thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần và vật chất của Đất Nước. Chính họ đã tạo nền móng sự sống cho Đất Nước và không những vậy, họ còn vùng lên đánh nội thù chống ngoại xâm và bảo vệ Đất Nước.

Qua đoạn thơ, tác giả đã biểu dương, ngợi ca vai trò của lịch sử bằng những hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc, giọng thơ vừa tự sự vừa trữ tình khẳng định sức mạnh lớn lao của nhân dân trong sự nghiệp dựng nước.

Tóm lại, đoạn thơ đã tái hiện cụ thể công lao đóng góp to lớn của nhân dân với đất nước. Nhà thơ đã nhìn nhận về đất nước và tư tưởng đất nước của nhân dân trên nhiều bình diện. cùng với giọng điệu trữ tình chính trị vừa thể hiện chiều sâu tư tưởng vừa thấm thía mà sức lay động trái tim con người, đặc biệt là tinh thần của thế hệ trẻ trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước đương thời. Đoạn thơ là những suy tư, phát hiện mới mẻ về vai trò của nhân dân trong lịch sử, khẳng định một tư tưởng mang tính thời đại: Đất Nước là của nhân dân. Đất nước không chỉ thể hiện tình cảm yêu nước sâu sắc của Nguyễn Khoa Điềm mà còn khơi dậy niềm tự hào về quê hương, tổ quốc trong lòng mỗi người. Với thế hẹ trẻ hiện nay cần phải cố gắng học tập để làm tròn trách nhiệm mà người đi trước để lại.

Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau trong Đất Nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm:

Nhưng em biết không

Có biết bao người con gái, con trai

Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái

Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại

Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

(Ngữ văn 12, Tập một, NXB Giáo dục, 2009, tr. 121)

Đất nước là một đoạn trích tiêu biểu trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm. Có nhiều đánh giá cho rằng đoạn thơ cuối của Đất nước thể hiện rõ nét tư tưởng đất nước của nhân dân. Anh chị hãy trình bày cảm nghĩ của mình về tư tưởng đất nước là của nhân dân qua đoạn thơ cuối trong đoạn trích “Đất nước”.

Bài làm

Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất cho thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chông Mĩ của dân tộc cùng với các tên tuổi khác như Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Trần Đăng Khoa, Xuân Quỳnh,… Tuy nhiên thơ Nguyễn Khoa Điềm lại mang một phong cách, giọng điệu riêng: giàu suy tư và dồn nén cảm xúc, thường hướng về tâm tư và trách nhiệm của người trí thức đối với đất nước, nhân dân. Đoạn trích “Đất nước” (trích trường ca “Mặt đường khát vọng”) rất tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ở đoạn trích này, Nguyễn Khoa Điềm đã có những cảm nhận và phát hiện hết sức độc đáo, sáng tạo về đất nước: Đất nước mang tư tưởng nhân dân, một đất nước do nhân dân xây dựng, thuộc về nhân dân. Và đặc biệt, tư tưởng đất nước là của nhân dân đó được thể hiện rất rõ trong đoạn cuối của đoạn trích.

Đoạn thơ cuối mở ra với những suy ngẫm của tác giả về lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta:

“Em ơi em hãy nhìn rất xa

Vào bốn nghìn năm đất nước…

… nuôi cái cùng con”

Khi nói về lịch sử dân tộc, nhiều người thường nhắc đến những triều đại hào hùng: “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập” hay nhắc đến những anh hùng, những danh nhân đất Việt như Chế Lan Viên đã nhắc đến trong bài thơ “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”:

“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc

Xem thêm:  Thành công của Tô Hoài trong việc khắc họa nội tâm nhân vật

Nguyễn Du viết Truyện Kiều, đất nước hóa thành văn

Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc

Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sông Bạch Đằng”

Cảm nhận đoạn thơ những em biết không có biết bao người con gái, con trai
Cảm nghĩ về tư tưởng là của nhân dân qua đoạn thơ cuối trong Đất nước

Tất cả những triều đại ấy, con người ấy đều đã trở nên bất tử và vô cùng quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam. Riêng Nguyễn Khoa Điềm có nhắc đến dân tộc nhưng không kể tên những triều đại hay liệt kê lại những người đã trở thành anh hùng mà “cả anh và em đều nhớ”, mà nhà thơ chú ý và nhấn mạnh đến những con người vô danh bình dị:

“Có biết bao người con gái con trai trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và đã chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm nên đất nước”

“Sống” và “chết” chính là những bình diện quen thuộc của mỗi con người, làm nên một cuộc đời. Nhân dân được đặt giữa hai bình diện ấy, cả “anh” và “em” cũng vậy. Nhưng sống như thế nào cho thật sự có ý nghĩa, đấy mới là điều đáng quan tâm. Và nhân dân đã sống thật “giản dị và bình tâm”, họ cứ thuần phác, đơn sơ, cần cù làm lụng sau lũy tre làng, gắn bó thân yêu với những “ruộng đồng gò bãi” từ đời này sang đời khác, không đòi hỏi, không cầu kì, không tính toán thiệt hơn. Họ cứ “lặng lẽ gánh vác phần người đi trước để lại” rồi lại “dặn dò con cháu chuyện mai sau”. Để đến khi giã biệt cuộc đời bằng cái chết bình thản trong dòng chảy vĩnh hằng của thời gian, năm tháng. Đó là một cuộc sống và cái chết thật sự ý nghĩa. Chính những con người đó đã làm nên đất nước, bởi nếu không có nhân dân thì sẽ không thể có đất nước này. Nhân dân đã có công gìn giữ, bảo vệ và truyền lại cho con cháu đời sau những giá trị vật chất:

“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Xem thêm:  Bài học rút ra từ câu chuyện Chim én và dế mèn

…Họ đắp đập be bờ cho đời sau trồng cây hái trái”

Không chỉ truyền lại những giá trị vật chất, nhân dân cũng giữu gòn và truyền lại cho đời sau mọi giá trị tinh thần và những phong tục tập quán quen thuộc:

“Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã, tên làng trong những chuyến di dân”

Giọng nói hay tên xã, tên làng đều mang những bản sắc riêng của quê hương, là niềm tự hào gắn với mỗi vùng quê xứ sở. Nó là gốc rễ, là cội nguồn không ai được phép quên nói như nhà thơ Đỗ Trung Quân:

“Quê hương nếu ai không nhớ

Sẽ không lớn nổi thành người”

Cũng chính nhân dân đã để lại cho đời sau ý chí và tinh thần đấu tranh kiên cường chống giặc ngoại xâm, để bảo vệ cho đất nước. Nhưng kẻ thù không phải chỉ là giặc xâm lăng từ bên ngoài mà còn kẻ thù lớn hơn, khó đấu tranh hơn chính là nội thù. Đó là những kẻ xấu làm ảnh hưởng đến quốc gia, đến mỗi cá nhân. Vì vậy đời nào cũng cần phải đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu. Tóm lại, đất nước được hình thành, phát triển và trường tồn chính là nhờ có nhân dân. Vì vậy, nhà thơ đã đi đến một kết luận mang ý nghĩa khái quát nhất, đỉnh cao của cảm xúc, đồng thời thâu tóm được toàn bộ tư tưởng chủ đề của tác phẩm:

“Để đất nước là đất nước của nhân dân

Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại”

Từ tư tưởng đất nước của nhân dân đó, nhà thơ đã tập trung ca ngợi những phẩm chất, những đức tính tốt đẹp nhất của nhân dân:

“Dạy anh biết yêu em

… trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

Vẫn với hình thức nghệ thuật quen thuộc mà tác giả đã sử dụng trong suốt cả đoạn thơ: những chất liệu văn học dân gian được vận dụng triệt để để tạo nên những tứ thơ quen mà lạ, Nguyễn Khoa Điềm đã ca ngợi tình yêu say đắm thủy chung trong đời sống tinh thần của nhân dân qua câu thơ:

Xem thêm:  Soạn bài Viết bài làm văn số 1: Nghị luận xã hội

“Dạy anh biết yêu em từ thưở trong nôi”

Câu thơ này được lấy ý từ bài ca dao:

“Yêu em từ thuở trong nôi

Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”

Nhân dân ta cũng có một truyền thống vô cùng đáng quý: đề cao công sức lao động hơn của cải vật chất qua bài ca dao:

“Cầm vàng mà lội qua sông

Vàng rơi chẳng tiếc, tiếc công cầm vàng”

Từ đó tác giả đã hình thành nên tứ thơ: “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”.

Còn câu thơ:

“Biết trồng tre mà đợi ngày thành gậy

Đi trả thù mà không sợ dài lâu”

lại ca ngợi truyền thống kiên cường, bền bỉ trong chiến đấu của nhân dân ta từ bao đời nay, được lấy từ ý của bài ca dao:

“Thù này ắt hẳn còn lâu

Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què”

Đoạn thơ cuối đã khép lại bằng những câu thơ tràn đầy chất nhạc, họa, chất tạo hình và biểu cảm:

“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

… trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

Ở đoạn thơ cuối này, ta bắt gặp vẻ đẹp bình dị mà vĩ đại của con người lao động Việt Nam, đồng thời cũng là lời ca ngợi vẻ đẹp của những dòng sông Việt Nam, đặc biệt là ca ngợi tinh thần lạc quan yêu đời, say mê lao động của nhân dân.

“Đất nước” là một chương của bản trường ca nhưng bản thân nó đã trở thành một chỉnh thể nghệ thuật đặc sắc cả về nội dung và hình thức. Đặc biệt, qua đoạn cuối của “Đất nước”, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra một tư tưởng lớn của thời đại: đó là tư tưởng “Đất nước của nhân dân” vừa toàn diện vừa sâu sắc.