Các cách trình bày nội dung đoạn văn đặc điểm của từng cách trình bày

TRÌNH TỰ LẬP LUẬN/CÁCH THỨC TRÌNH BÀY ĐOẠN VĂN
Đoạn văn có nhiều cách trình bày :Diễn dịch- quy nạp- song hành- móc xích- tổng phân hợp...Bài viết dưới đây khái quát lí thuyết và đoạn văn mẫu tham khảo cho học sinh để làm tốt bài thi môn Ngữ văn.
1. Đoạn văn diễn dịch [Có câu chủ đề]: Đoạn diễn dịch là đoạn văn trong đó câu chủ đề mang ý nghĩa khái quát đứng ở đầu đoạn, các câu còn lại triển khai cụ thể ý của câu chủ đề, bổ sung, làm rõ cho câu chủ đề. Các câu triển khai được thực hiện bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, có thể kèm theo nhận xét, đánh giá và bộc lộ cảm nhận của người viết. VD:

 Một chiếc lá rụng có linh hồn riêng, một tâm tình riêng, một cảm giác riêng. Có chiếc tựa như mũi tên nhọn, từ cành cây rơi cắm phập xuống đất như cho xong chuyện, cho xong một đời lạnh lùng thản nhiên, không thương tiếc, không do dự vẩn vơ. Có chiếc lá như con chim bị lảo đảo mấy vòng trên không rồi cố gượng ngoi đầu lên, hay giữ thăng bằng cho tận tới cái giây nằm phơi trên mặt đất. Có chiếc lá nhẹ nhàng khoan khoái đùa bỡn, hay múa may với làn gió thoảng như thầm bảo rằng vẻ đẹp của vạn vật chỉ ở hiện tại: cả thời quá khứ dài dằng dặc của chiếc lá trên cành cây không bằng một vài giây bay lượn, nếu sự bay lượn ấy có vẻ đẹp nên thơ. Có chiếc lá như sợ hãi, ngần ngại rụt rè, rồi như gần tới mặt đất, còn cất mình muốn bay trở lại cành. Có chiếc lá đầy âu yếm rơi bám vào một bông hoa thơm, hay đến mơn trớn một ngọn cỏ xanh mềm mại.

[Khái Hưng]

2. Đoạn văn qui nạp [Có câu chủ đề]: Đoạn qui nạp là đoạn văn được trình bày đi từ các ý nhỏ đến ý lớn, từ các ý chi tiết đến ý khái quát, từ ý luận cứ cụ thể đến ý kết luận bao trùm. Theo cách trình bày này, câu chủ đề nằm ở vị trí cuối đoạn. Ở vị trí này, câu chủ đề không làm nhiệm vụ định hướng nội dung triển khai cho toàn đoạn mà lại làm nhiệm vụ khép lại nội dung cho đoạn ấy. Các câu trên được trình bày bằng các thao tác lập luận, minh họa, cảm nhận và rút ra nhận xét đánh giá chung. VD:

Những đứa con từ khi sinh ra đến khi trưởng thành, phần lớn thời gian là gần gũi và thường là chịu ảnh hưởng từ người mẹ hơn từ cha. Chúng được mẹ cho bú sữa, bồng ẵm, dỗ dành, tắm giặt, ru ngủ, cho ăn uống, chăm sóc rất nhiều khi ốm đau…Với việc nhận thức thông qua quá trình bé tự quan sát, học hỏi tự nhiên hàng ngày và ảnh hưởng đặc biệt các đức của người mẹ, đã hình thành dần dần bản tính của đứa con theo kiểu “mưa dầm, thấm lâu”. Ngoài ra, những đứa trẻ thường là thích bắt chước người khác thông qua những hành động của người gần gũi nhất chủ yếu là người mẹ. Chính người phụ nữ là người chăm sóc và giáo dục con cái chủ yếu trong gia đình.

[Trần Thanh Thảo]

3. Đoạn tổng – phân – hợp [Có câu chủ đề ở đầu và cuối đoạn văn]: Đoạn tổng – phân – hợp là đoạn văn phối hợp diễn dịch với qui nạp. Câu mở đầu đoạn nêu ý khái quát bậc một, các câu tiếp theo triển khai cụ thể ý khái quát. Câu kết đoạn là ý khái quát bậc hai mang tính chất nâng cao, mở rộng. Những câu triển khai ý được thực hiện bằng các thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, nhận xét, đánh giá hoặc nêu suy nghĩ…để từ đó đề xuất nhận định đối với chủ đề, tổng hợp, khẳng định, năng cao vấn đề.

VD:

Thế đấy, biển luôn luôn thay đổi màu tùy theo sắc mây trời. Trời xanh thẳm, biển cũng xanh thẳm, như dâng cao lên, chắc nịch. Trời rải mây trắng nhạt, biển mơ màng dịu hơi sương. Trời âm u mây mưa, biển xám xịt, nặng nề. Trời ầm ầm dông gió, biển đục ngầu giận dữ…Như một con người biết buồn vui, biển lúc tẻ nhạt, lạnh lung, lúc sôi nổi, hả hê, lúc đăm chiêu, gắt gỏng.

[Vũ Tú Nam]

4. Đoạn văn song hành [Không có câu chủ đề]: Đây là đoạn văn có các câu triển khai nội dung song song nhau, không nội dung nào bao trùm lên nội dung nào. Mỗi câu trong đoạn văn nêu một khía cạnh của chủ đề đoạn văn, làm rõ cho nội dung đọan văn.

VD: Trong tập “Nhật kí trong tù”[Hồ Chí Minh], có những bài phác họa sơ sài mà chân thực đậm đà, càng tìm hiểu càng thú vị như đang chiêm ngưỡng một bức tranh cổ điển. Có những bài cảnh lồng lộng sinh động như những tấm thảm thuê nền gấm chỉ vàng. Cũng có những bài làm cho người đọc nghĩ tới những bức tranh sơn mài thâm trầm, sâu sắc. [Lê Thị Tú An]

5. Đoạn văn móc xích: Đoạn văn có kết cấu móc xích là đoạn văn mà các ý gối đầu, đan xen nhau và thể hiện cụ thể bằng việc lặp lại một vài từ ngữ đã có ở câu trước vào câu sau. Đoạn móc xích có thể có hoặc không có câu chủ đề.

VD: Đọc thơ Nguyễn Trãi, nhiều người đọc khó mà biết có đúng là thơ Nguyễn Trãi không. Đúng là thơ Nguyễn Trãi rồi thì cũng không phải là dễ hiểu đúng. Lại có khi chữ hiểu đúng, câu hiểu đúng mà toàn bài không hiểu. Không hiểu vì không biết chắc bài thơ bài thơ được viết ra lúc nào trong cuộc đời nhiều nổi chìm của Nguyễn Trãi. Cũng một bài thơ nếu viết năm 1420 thì có một ý nghĩa, nếu viết năm 1430 thì nghĩa khác hẳn. [Hoài Thanh]

6. Đoạn văn so sánh: Đoạn văn so sánh có sự đối chiếu để thấy cái giống nhau hoặc khác nhau giữa các đối tượng, các vấn đề,…để từ đó thấy được chân lí của luận điểm hoặc làm nổi bật luận điểm trong đoạn văn. Có hai kiểu so sánh khi viết đoạn văn là: so sánh tương đồng và so sánh tương phản.


So sánh tương đồng: Đoạn văn có sự so sánh tương tự nhau dựa trên một ý tưởng. VD: Ngày trước ông cha ta có câu “Có công mài sắt có ngày nên kim”. Cụ Nguyễn Bá Học, một nho sĩ đầu thế kỉ XX cũng viết: “Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Sau này vào những năm bốn mươi giữa bóng tối ngục tù của Tưởng Giới Thạch, nhà thơ Hồ Chí Minh cũng đề cập tới tính kiên nhẫn, chấp nhận gian lao qua bài thơ “Nghe tiếng giã gạo”, trong đó có câu: “Gian nan rèn luyện mới thành công”. Câu thơ thể hiện phẩm chất tốt đẹp, ý chí của Hồ Chí Minh đồng thời còn là châm ngôn rèn luyện cho mỗi chúng ta. [Lê Bá Hân]

So sánh tương phản: Đoạn văn có sự so sánh trái ngược nhau về nội dung, ý tưởng.

VD:

Trong cuộc sống không thiếu những người cho rằng cần học tập để thành tài, có tri thức hơn người khác mà không hề nghĩ tới việc rèn luyệnđạo đức, lễ nghĩa, vốn là giá trị cao quí nhất trong các giá trị của loài người. Những người luôn hợm mình, tự cao tự đại, nhiều khi trở thành những kẻ có hại cho xã hội. Đối với những người ấy, chúng ta cần giúp họ hiểu rõ lời dạy của người xưa: “Tiên học lễ, hậu học văn”

[Nguyễn Quang Ninh]

7. Đoạn văn có kết cấu đòn bẩy, bắc cầu: Đoạn văn kết cấu đòn bẩy, bắc cầu là đoạn văn mở đầu nêu một nhận định, dẫn một câu chuyện hoặc một đoạn thơ văn, những dẫn chứng gần giống hoặc trái với ý tưởng [Chủ đề của đoạn] tạo thành điểm tựa, làm cơ sở để phân tích sâu sắc ý tưởng đề ra.

VD:

“Quen biết khắp thiên hạ, hiểu được mình có mấy người”. Bình thường chúng ta hay than vãn không tìm được người bạn hiểu được mình. Quả đúng như vậy, tri âm khó tìm, cuộc đời có thể có được người hiểu mình, thì không còn gì đáng tiếc! Nhưng, kết bạn không chỉ là việc của riêng đơn phương một người, mà tâm ý của cả hai phải hiểu rõ nhau, nếu chỉ một phía có tâm, một  bên vô tâm thì sẽ khó thành bạn bè được. Một bên nghèo hèn, một bên giàu có, tình bạn cũng có cơ hội  trải nghiệm đói no. Kết giao bạn bè, có thể cùng chung hoạn nạn, sinh tử không sợ mới có thể thấy rõ chân tình, mới đáng để ca tụng.

[Đại sư Tinh Vân]

[Last Updated On: 13/09/2021]

Hiện nay, đoạn văn còn có nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng hợp lí hơn cả là nên coi đoạn văn vừa là sự phân đoạn nội dung, vừa là sự phân đoạn hình thức. Theo đó, khái niệm đoạn văn được hiểu là một tập hợp câu có quan hệ chặt chẽ với nhau, diễn đạt một nội dung nhất định, được phân đoạn trong văn bản bằng chỗ lùi đầu dòng, viết hoa và kết thúc bằng dấu chấm ngắt đoạn.

Đặc điểm của đoạn văn

a. Về nội dung

Là đơn vị cơ sở của văn bản, là chỉnh thể trên câu nên đoạn văn diễn đạt một nội dung nhất định. Cố nhiên, về mặt nội dung, đoạn văn có thể hoàn chỉnh ở một mức độ nào đó [thể hiện lôgic – ngữ nghĩa], hoặc có thể không hoàn chỉnh [thể hiện biểu cảm – thẩm mĩ]. Sự không hoàn chỉnh về nội dung của đoạn văn là do thể loại văn bản hoặc ý đồ của người viết chi phối chứ không phải tùy tiện hoặc vô ý thức. Chính đặc điểm không hoàn chỉnh này cho phép chúng ta phân biệt đoạn văn với văn bản. Chỉ có văn bản mới có nội dung hoàn chỉnh, trọn vẹn, còn các đơn vị bậc dưới văn bản [trong đó có đoạn văn] không nhất thiết phải hoàn chỉnh. Khi đoạn văn biểu hiện một nội dung tương đối hoàn chỉnh thì nó sẽ có những đặc điểm kết cấu đồng dạng ở mức cao nhất với văn bản và được gọi là đoạn ý, có giá trị kết cấu. Chẳng hạn, xét đoạn văn sau:

Hoàng Tuệ là một trí thức có bản lĩnh. Tư tưởng của ông không gò bó. Ông đọc nhiều, tiếp thu nhiều, nhạy cảm với cái mới, nhưng có sự độc lập suy nghĩ, tự mình suy nghĩ, suy ngẫm. Lối tư duy giáo điều, xơ cứng xa lạ với Hoàng Tuệ. Cũng xa lạ với Hoàng Tuệ cái thói quen nghĩ theo, nói dựa; ông thường có nhận định, ý kiến riêng của mình, thẳng thắn phát biểu một cách có trách nhiệm, và không chỉ trong khoa học. Những ý kiến đó lắm khi độc đáo, và không ít khi ngang tàng. Chính vì vậy mà nhiều người thích ông, nhưng cũng có người không hiểu hết ông.

Đoạn văn trên có 6 câu; các câu trong đoạn đều tập trung làm sáng tỏ nội dung: Hoàng Tuệ là một trí thức có bản lĩnh.

Trường hợp đoạn văn không có sự hoàn chỉnh [ở một mức độ nào đó] về nội dung thì được gọi là đoạn diễn đạt, chỉ có chức năng biểu cảm. Chẳng hạn, xét hai đoạn văn dưới đây:

[1] Nói phải có đầu, có đuôi, có nội dung. Chớ nói lung tung như nhiều cán bộ ở các cuộc hội nghị, mít tinh nói rồi không biết đường nào mà đi nữa. Nói ít nhưng thấm thía thì quần chúng vẫn thích hơn.

[2] Muốn nói gì phải chuẩn bị trước [Hồ Chí Minh].

Từng đoạn trên chưa hoàn chỉnh về nội dung, bởi đoạn [2] chỉ có một câu [vốn là câu tiếp theo của đoạn 1] được tách ra để nhấn mạnh. Hai đoạn này mới thể hiện nội dung tương đối hoàn chỉnh [lời khuyên của Hồ Chí Minh về cách nói, cách viết].

b. Về hình thức

Mỗi đoạn văn đều có một cấu trúc nhất định và được nhận diện về hình thức:

– Mở đầu bằng chữ lùi đầu dòng, viết hoa.

– Kết thúc bằng dấu chấm ngắt đoạn, xuống dòng.

– Là phần nằm giữa hai khoảng trống trong văn bản.

Ở dạng nói, việc nhận diện đoạn văn [còn gọi đoạn lời] khó khăn hơn. Tuy vậy, dựa vào ngữ điệu, chỗ ngừng và vài từ ngữ đánh dấu như mặt khác, tiếp theo, thứ nhất, thứ hai, v.v. ta có thể nhận diện được đoạn lời.

c. Về cấu tạo

Cấu tạo đoạn văn khá đa dạng. Nếu căn cứ vào số lượng câu trong đoạn văn thì có thể chia đoạn văn làm hai loại: đoạn bình thường [gồm có nhiều câu] và đoạn đặc biệt [chỉ có một câu]. Nếu dựa vào câu chủ đề, đoạn văn cũng chia làm hai loại: đoạn văn có câu chủ đề [gồm đoạn diễn dịch, đoạn quy nạp, đoạn kết hợp diễn dịch và quy nạp] và đoạn văn không có câu chủ đề [gồm đoạn song hành, đoạn móc xích]. Nếu dựa vào cách thức lập luận, đoạn văn chia thành năm loại: đoạn diễn dịch, đoạn quy nạp, đoạn kết hợp diễn dịch và quy nạp, đoạn song hành  và đoạn móc xích. Chẳng hạn, cho đoạn văn:

Nghệ thuật thơ trong “Nhật kí trong tù” thật là phong phú. Có bài là lời phát biểu trực tiếp, đọc hiểu ngay. Có bài lại dùng lối ngụ ngôn rất thâm thúy. Có bài tự sự. Có bài trữ tình hay vừa tự sự vừa trữ tình. Lại có bài châm biếm.

Đoạn văn trên, là đoạn văn bình thường, nếu căn cứ vào số lượng câu; là đoạn văn có câu chủ đề, nếu dựa vào câu chủ đề; là đoạn diễn dịch, khi ta nhìn từ cách thức lập luận.

Câu chủ đề của đoạn văn

a. Khái niệm câu chủ đề

Câu chủ đề là câu mang nội dung khái quát, thể hiện ý chính [chủ đề] của đoạn văn; bao giờ cũng là câu đầy đủ thành phần và thường tương đối ngắn gọn.

Ví dụ: Dạy văn chương ở phổ thông có nhiều mục đích [1]. Trước hết, nó tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc với một loại sản phẩm đặc biệt của con người, kết quả của một thứ lao động đặc thù – lao động nghệ thuật [2]. Đồng thời, dạy văn chương chính là hình thức quan trọng giúp các em hiểu biết, nắm vững và sử dụng tiếng mẹ đẻ cho đúng cho hay [3]. Dạy văn chương cũng là một trong những con đường của giáo dục thẩm mĩ [4]. [Lê Ngọc Trà]

Trong đoạn văn trên, câu [1]: Dạy văn chương ở phổ thông có nhiều mục đích là câu chủ đề của đoạn văn.

b. Cách viết câu chủ đề

Câu chủ đề thường là một câu, có độ dài không lớn so với các câu khác trong đoạn văn. Về vị trí, câu chủ đề có thể đứng đầu đoạn văn, có thể đứng cuối đoạn văn. Câu chủ đề cũng có thể gồm hai câu trở lên, gọi là câu chủ đề ghép. Câu chủ đề ghép có thể ghép liền [các câu đứng cạnh nhau], có thể ghép dãn cách [đầu đoạn – cuối đoạn]. Chẳng hạn, xét hai đoạn văn dưới đây:

Ví dụ 1. Vấn đề trong sáng là khá phức tạp [1]. Quan niệm về sự trong sáng cũng như quan niệm về dân tộc, không phải là một cái gì tuyệt đối cố định [2]. Có sự trong sáng quay lại sau, lấy cha ông làm mẫu mực tuyệt đối, nhưng cũng có sự trong sáng nhìn ra trước, mở đường đi cho con cháu mai sau [3]. Có sự trong sáng dân tộc hẹp hòi, chỉ biết say mê ngắm nhìn dân tộc mình, nhưng có sự trong sáng đặt dân tộc mình là một bộ phận của nhân loại [4]. Có sự trong sáng động và trong sáng tĩnh, trong sáng giàu và trong sáng nghèo [5]. [Chế Lan Viên]

Ví dụ 2. Tiếng cười trong truyện tiếu lâm Việt Nam mang rất nhiều cung bậc khác nhau [1]. Tiếng cười ở mảng truyện về người nông dân chủ yếu để giải thoát buồn phiền, mệt nhọc nên cung bậc cười thật vô tư, thoải mái [2]. Ở mảng truyện về tầng lớp tiểu thương, trí thức rởm như thầy đồ, thầy lang, thầy cúng, thầy bói,… lại là tiếng cười chế diễu, đả kích [3]. Còn ở mảng truyện về bọn cường hào, quan lại, tiếng cười trở nên quyết liệt, mạnh mẽ, không khoan nhượng [4]. Phải nói là các cung bậc cười trong truyện tiếu lâm thật phong phú, đa dạng, tiếng cười vừa để giáo dục con người, vừa để cười cho sảng khoái, để tồn tại, để phấn đấu cho cuộc đời tốt đẹp hơn [5].

Ở ví dụ 1, các câu [1] và [2] là câu chủ đề [đoạn diễn dịch], còn ở ví dụ 2, câu chủ đề là câu [1] và [5], [đoạn kết hợp diễn dịch với quy nạp]. Câu chủ đề trong hai đoạn văn trên là câu chủ đề ghép nhưng cách ghép khác nhau: các câu đứng cạnh nhau [ví dụ 1], các câu dãn cách [ví dụ 2].

Cấu trúc của đoạn văn

a. Cấu trúc nội dung

Thông thường, đoạn văn có sự hoàn chỉnh nhất định nào đó về nội dung, nghĩa là có cấu trúc nội dung. Cấu trúc nội dung là quan hệ của tất cả các thành tố nội dung trong đoạn văn, bao gồm:

– Ý chính của đoạn văn, tức là ý bao trùm, toát ra từ tất cả các câu trong đoạn. Ý chính được gọi là chủ đề của đoạn văn. Nó được thể hiện dưới hai hình thức: 1/ Hàm chứa trong một câu, hoặc hơn một câu [câu chủ đề]; 2/ Ẩn vào trong tất cả các câu của đoạn văn, [nghĩa là, ý chính không được hiển ngôn mà phải khái quát ý nghĩa bộ phận của các câu trong đoạn].

– Các ý bộ phận, tức là các thành tố nội dung chi tiết, có nhiệm vụ triển khai [giải thích, chứng minh] ý chính. Các ý bộ phận bị chi phối bởi ý chính. Do đó, các ý bộ phận phải được xác lập và trình bày đầy đủ, mạch lạc, lôgíc.

b. Cấu trúc hình thức

– Về bố cục, đoạn văn ở dạng lí tưởng có ba phần: phần mở đoạn [M], phần triển khai đoạn [a], phần kết đoạn [K]. Trong ba phần, phần [a] luôn luôn có mặt [dù là đoạn tối giản], còn phần [M] và [K] có thể vắng mặt.

– Về ngôn ngữ, dùng các đơn vị ngôn ngữ [từ, câu] và các phương tiện liên kết để tường minh nội dung đoạn văn. Chẳng hạn, xét hai đoạn văn sau đây:

Ví dụ 1. Ngoài ánh sáng của một tâm hồn lớn, “Nhật kí trong tù” còn tỏa ánh sáng của một trí tuệ lớn [1]. Đó là ánh sáng của thế giới quan, nhân sinh quan Mác-Lênin, là ánh sáng của những kinh nghiệm đấu tranh cách mạng của một lãnh tụ vĩ đại [2]. “Học đánh cờ” là tư tưởng chỉ đạo chiến lược, chiến thuật quân sự được hình tượng hóa thành thơ [3]. “Cảm tưởng đọc Thiên gia thi” là tuyên ngôn bằng thơ của thơ ca cách mạng và nhà thơ cách mạng [4]. “Cột cây số”, “Nghe tiếng giã gạo”… là những bài học lớn về đạo đức cách mạng [5]. Thơ “Nhật kí trong tù” bài nào cũng lấp lánh áng sáng của trí tuệ lớn [6].

Ví dụ 2. Ca dao là bầu sữa tinh thần nuôi dưỡng tuổi thơ [1]. Ca dao là hình thức trò chuyện tâm tình của những chàng trai, cô gái đang yêu [2]. Ca dao là tiếng nói biết ơn, tự hào về công đức tổ tiên và anh linh của những người đã khuất [3]. Ca dao là phương tiện bộc lộ nỗi tức giận hoặc lòng hân hoan của những người sản xuất [4].

Ta thấy, đoạn văn ở ví dụ 1 có đầy đủ ba phần: câu [1] là phần mở đoạn [M], các câu [2], [3], [4], [5] là phần triển khai đoạn [a], còn câu [6] là phần kết đoạn [K]. Ý chính của đoạn văn được thể hiện ở câu [1] và [6], ý trong các câu [2], [3], [4], [5] là các ý bộ phận. Còn đoạn văn ở ví dụ 2 chỉ có phần triển khai đoạn [a], không có phần mở đoạn [M] và kết đoạn [K]. Ý chính của đoạn văn ẩn vào ý bộ phận trong các câu [1], [2], [3], [4].

Lập luận trong đoạn văn

Lập luận là xác lập một số lí lẽ và dẫn chứng nhằm hướng đến một kết luận, một ý kiến hay một nhận định nào đó. Mỗi đoạn văn thường thể hiện một cách lập luận nhất định. Lập luận bằng cách nào là tùy thuộc vào nội dung và chiến lược giao tiếp của người viết/ người nói.

Các kiểu lập luận thường gặp trong đoạn văn:

a. Diễn dịch

Diễn dịch là kiểu lập luận đi từ cái khái quát [cái chung] đến cái cụ thể [cái riêng]. Kiểu lập luận này, câu đầu tiên trong đoạn văn là câu chủ đề [kết luận], còn các câu tiếp sau có nhiệm vụ triển khai, làm sáng tỏ chủ đề [các luận cứ].

Ví dụ: Giữa cơ thể và môi trường có ảnh hưởng qua lại với nhau. Môi trường có ảnh hưởng đến mọi đặc tính của cơ thể. Chỉ cần so sánh những loại lá cây mọc trong những môi trường khác nhau là thấy rõ điều đó. Để thực hiện những nhiệm vụ thứ yếu hoặc do ảnh hưởng của môi trường, lá mọc trong không khí có thể biến thành tua cuốn như đậu hà lan, hay tua móc gai bám vào trụ leo như ở cây mây. Ở những miền khô ráo, lá có thể biến gai giảm bớt sự thoát hơi nước như ở cây xương rồng, hay dầy lên và chứa nhiều nước như ở cây lá bỏng.

b. Quy nạp

Quy nạp là kiểu lập luận bắt đầu bằng cái cụ thể, riêng lẻ đến cái khái quát, cái chung. Ở kiểu lập luận này, câu kết thúc là câu chủ đề, nó thâu tóm những câu mang thông tin cụ thể đứng ở phía trước.

Ví dụ: Quan lại vì tiền mà bất chấp công lí. Sai nha vì tiền mà tra tấn cha con Vương Ông. Tú bà, Mã Giám Sinh, Bạc Bà, Bạc Hạnh vì tiền mà làm nghề buôn thịt bán người. Sở Khanh vì tiền mà táng tận lương tâm. Khuyển Ưng vì tiền mà lao vào tội ác. Cả một xã hội chạy theo đồng tiền.

c. Kết hợp diễn dịch với quy nạp

Kiểu lập luận này có sự phối hợp giữa diễn dịch và quy nạp: câu đầu nêu nội dung khái quát, các câu tiếp theo là những thông tin cụ thể, chi tiết [lí lẽ, dẫn chứng] vừa làm sáng tỏ nội dung khái quát [ở câu đầu], vừa chuẩn bị cho một nội dung khái quát ở câu cuối nhưng mức độ cao hơn. Câu cuối đoạn khái quát hóa, đúc kết lại những nội dung đã trình bày trong những câu đứng trước.

Ví dụ: Nghệ thuật và tuyên truyền không phải hoàn toàn khác nhau, nhưng cũng không hoàn toàn giống nhau. Tuyên truyền cũng là một thứ nghệ thuật. Nghệ thuật tuyên truyền là một phần trong nghệ thuật nói chung. Và bất cứ tác phẩm nghệ thuật nào cũng có ít nhiều tính tuyên truyền nhưng nói như thế không phải có thể kết luận rằng nghệ thuật và tuyên truyền chỉ là một. Tuyên truyền cao đến một mức nào đó thì tuyên truyền trở thành nghệ thuật. Nghệ thuật thiết thực đến một mức nào đó thì nghệ thuật có tính rõ rệt là tuyên truyền. Cho nên, có thể có những người tuyên truyền không phải hoặc chưa phải là nghệ sĩ nhưng không thể có những nghệ sĩ hoàn toàn không phải là người tuyên truyền. [Trường Chinh]

Trên đây là ba cách lập luận thường gặp. Ngoài ra, trong đoạn văn, chúng ta có thể sử dụng một số kiểu lập luận khác như song hành, móc xích, so sánh, nhân quả, v.v..

[Nguồn tham khảo: Nguyễn Hoài Nguyên, Giáo trình thực hành văn bản tiếng Việt]

Video liên quan

Chủ Đề