Các bài thơ về văn tế thập loại chúng sinh năm 2024

Tìm hiểu về “thập loại chúng sinh” [highlight=

f3f3f3][blockquote][blockquote]Một cảnh ở Địa ngục

[/blockquote][/blockquote][/highlight] Ngoài Truyện Kiều đã quảng bá khắp dân gian, thi hào Nguyễn Du còn là tác giả của một tác phẩm mà không mùa Vu Lan nào không được nhắc đến. Đó là bài “Văn tế thập loại chúng sinh”. Là người Việt Nam, ít ai không thuộc dăm ba câu trong truyện Kiều, cũng như ít ai không biết tác giả áng văn tuyệt tác viết bằng thể thơ lục bát đó là thi hào Nguyễn Du. Rất nhiều đoạn, nhiều câu, nhiều tình huống trong truyện Kiều đã trở thành văn học dân gian vì những tâm trạng, những hoàn cảnh đó quá gần gũi với môi trường thực tế trong xã hội, cả thời xưa cho đến ngày nay. Ngoài Truyện Kiều đã quảng bá khắp dân gian, thi hào Nguyễn Du còn là tác giả của một tác phẩm mà không mùa Vu Lan nào không được nhắc đến. Đó là bài “Văn tế thập loại chúng sinh”. Tự thân Nguyễn Du đã nhận chịu quá nhiều đau thương buồn tủi từ thuở ấu thơ nên tâm hồn rất nhạy cảm trước nỗi đau nhân thế. Những tác phẩm của tiên sinh thường bàng bạc tinh thần Phật giáo qua luật nhân quả, vòng tử sinh luân hồi, vay trả mà chưa phân minh thì sau khi thác sẽ thành những oan hồn uổng tử, vất vưởng khắp chốn u tối mịt mùng. Những oan hồn đó chỉ trông chờ vào mùa mưa tháng bẩy, chầu chực miếng cơm chén cháo nơi các trai đàn chẩn tế thí thực cho! Tại sao lại tháng bẩy?

Vì đó là thời điểm Đức Phật dạy ngài Mục Kiền Liên phương thức cứu mẹ khỏi chốn địa ngục A-Tỳ. Lòng thành của người con thảo thỉnh cầu Chư Tăng đang tụ hội về trong ngày Tự Tứ, cùng góp lời cầu xin và sám hối, không những đã cứu được bà Thanh Đề khỏi nghiệp gông cùm đói khát, mà cũng trong ngày đó, năng lượng dũng mãnh của Chư Tăng còn lan tỏa, xá tội được cho tất cả bao oan hồn uổng tử vất vưởng chốn u tối ngục hình. Nhân gian từ đó noi theo, lấy ngày rằm tháng bẩy là ngày Vu Lan báo hiếu, đồng thời lập đàn, bày thực phẩm thí phát cho những oan hồn bơ vơ không ai tế độ. Văn minh nhân loại, hợp cùng y học thực tiễn, dù tinh vi đến đâu cũng chưa thể giải thích thỏa đáng những trường hợp hiển linh, chứng minh về sự cố “Chết, chưa là hết. Chết mà chưa siêu được thì hồn vẫn vất vưởng trong cõi u minh”. Kinh Pháp Cú có đoạn dạy rằng “kẻ nào không tin luật nhân quả, không tin có sinh tử luân hồi thì không điều ác nào mà kẻ ấy không dám làm” Lời dạy này thật đơn giản, vì nếu không tin làm ác gặp ác, thì cứ việc gì mang lợi tới cho bản thân là làm, dù việc đó gây tai hại cho người khác; Không tin luân hồi sinh tử thì đang có thân người đây, mục đích duy nhất là phục vụ thân này, dù dẫm đạp lên người khác, vì khi chết là hết, can chi phải nương tay, dại gì không tận hưởng! Thương thay cho những ai lập luận rằng nhân quả và luân hồi vô hình vô tướng, mù mờ quá, lấy gì mà tin! Họ thấy chăng những cái có hình có tướng đang nắm giữ trong tay, cột chặt trong người mà vẫn chớp mắt vuột mất thì lại quyết tin là có thật! Này là bằng hữu tôi, này là tri kỷ tôi, này là vợ, này là chồng tôi, này là những gì quý nhất, bền bỉ nhất của tôi, nhưng tỉnh dậy mà nhìn quanh xem, nhan nhản biết bao cảnh vô thường. Bóng câu chưa khuất ngang khung cửa thì tình đã nhạt, hương đã phai, những cái tưởng của tôi muôn đời, đã lạnh lùng biến dạng, đã là của người khác! Tình đã thế, tiền thì sao? Này là xe tôi, này là nhà tôi, này là của cải tôi, chỉ cần qua một đêm mộng mị, tình huống ngoài xã hội kia chợt thay đổi khiến tiền cất kỹ trong băng trở thành giấy, ngôi nhà đang ở trở thành nợ nần, không chạy khỏi cho mau sẽ còn mang lụy! Những gì có hình có tướng, ngỡ đã cất giữ thật chặt, thật kỹ đó, chúng ta vẫn thường đau khổ chứng kiến sự ra đi phù du của chúng. Nhưng lạ thay, dù thấy, dù biết, ta vẫn cố níu kéo cho tới ngày thành ma vất vưởng! Tiên Sinh Nguyễn Du động lòng trắc ẩn đã dùng ngòi bút lân mẫn mà khóc cho thập loại chúng sinh: Thập loại là những loại nào, Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh Nguyễn Du cất tiếng kêu cứu, khóc cho tất cả kiếp nhân sinh khi sống đã buông lung, không sợ nhân quả, lúc thác đi, làm ma côi cút lang thang. Mười loại chúng sinh tiêu biểu trong xã hội, từ vua quan tể tướng, kẻ sỹ, kẻ nông, kẻ già, người trẻ, kẻ thầy, người thợ, nếu thác đi không ai tế tự, đều mòn mỏi đợi mùa tháng bẩy tìm về những trai đàn chẩn tế: Tiết tháng bẩy mưa dầm sùi sụt Toát hơi may lạnh ngắt sương khô Não người thay buổi chiều thu Ngàn lau khóm bạc lá ngô đồng vàng Đường bạch dương bóng chiều man mác Ngọc đường lê lác đác mưa sa Lòng nào lòng chẳng thiết tha Cõi dương còn thế, nữa là cõi âm! Những kẻ lúc sống, ngủ vùi trong giấc mộng vô thường, khi thác đi mới chợt tỉnh thì ôi thôi: Khi nằm xuống không người nhắn nhủ Của phù vân dù có như không Sống thời tiền chảy, bạc ròng Thác không đem được một đồng nào đi! Khi đó, thân người chẳng có, trí huệ cũng không, bà con quyến thuộc nay đều trở thành người dưng kẻ lạ vì: Mỗi người một nghiệp khác nhau Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ! Nguyễn Du là người từng lắng tâm, tụng đọc kinh Kim Cang hàng ngàn lần để thấu đáo sâu sa lẽ vô thường “Nhất thiết hữu vi pháp. Như mộng huyễn bào ảnh. Như lộ diệc như điển. Ưng tác như thị quán” Từ đấy, mới rộng lòng xót thương bao kẻ chưa kịp tỉnh giác đã vội thác làm ma, đồng loạt lang thang khổ sở như nhau, chẳng còn chi là giầu nghèo, cao thấp nữa. Nguyễn Du đã nhỏ lệ, cất lời cầu xin bình đẳng cho tất cả: Hương khói đã không nơi nương tựa Phận mồ côi lần lữa đêm đêm Còn chi ai khá, ai hèn Còn chi mà nói ai hiền, ai ngu Tiết đầu thu dựng đàn giải thoát Nước tịnh bình tưới hạt dương chi Nương nhờ Đức Phật từ bi Giải oan cứu khổ, hồn về Tây Phương Là con Phật, nếu chúng ta tin, hiểu lời Phật dạy, ta sẽ dễ dàng biết mở rộng cánh cửa từ bi sẵn có trong mỗi trái tim để cùng chia xẻ với ngài A Nan khi thấy Đức Phật dừng lại bên đường và quỳ lạy đống xương khô. Trong đống xương hỗn độn đó, với vòng sinh tử luân hồi chưa từng ngưng dứt, mấy ai dám chắc không có thịt xương ông bà, cha mẹ mình! Sự chiêu cảm giữa đất trời và âm dương chia cách là những thực thể chúng ta từng thấy: Bóng phần tử xa chừng hương khúc Bãi tha ma kẻ dọc người ngang Cô hồn nhờ gởi tha phương Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng! Trong niềm bi ai khóc cho lỗi lầm nhân thế, Nguyễn Du cũng không quên những oan hồn trẻ thơ, chưa tội tình gì mà đã thác oan. Những linh hồn bé bỏng, chưa tự lo liệu, chưa biết nghĩ suy, làm sao nơi cõi âm tăm tối mà tìm được hạt cơm, hớp cháo!? Tiếng khóc này của Nguyễn Du mới cực kỳ bi thiết làm sao: Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé Lỗi giờ sinh, lìa mẹ, lìa cha Lấy ai bồng bế xót xa U ơ tiếng khóc, thiết tha nỗi lòng! Thương thay, bao oan hồn bơ vơ, lầm lũi theo nhau trong đêm tối: Nghe gà gáy tìm đường ẩn tránh Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra Lôi thôi bồng trẻ dắt già Có khôn thiêng cố lại mà nghe kinh Bằng tất cả niềm tin dũng mãnh nơi năng lượng vô biên, mầu nhiệm của Chư Phật, Nguyễn Du khuyến tấn: Kiếp phù sinh như bào như ảnh Có chữ rằng: Vạn cảnh giai không Ai ơi, lấy Phật làm lòng Tự nhiên siêu thoát khỏi vòng trầm luân Với sự tin tưởng đó, Nguyễn Du tiên sinh đã kết thúc “Văn tế thập loại chúng sinh” bằng một trai đàn chẩn tế, thành tâm dâng cúng: Ai đến đây, dưới trên ngồi lại Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu Phép thiêng biến ít thành nhiều. Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh Phật từ bi hữu tình phổ độ Chớ ngại rằng có có, không không Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng Nam Mô nhất thiết siêu thăng thượng đài. Nhân mùa Vu Lan báo hiếu và cúng thí cô hồn, xá tội vong nhân, xin trích lại phần nào bài văn tế của thi hào Nguyễn Du để góp lời cầu nguyện dâng lên mười phương Chư Phật, Chư Bồ Tát, Chư Hiền Thánh Tăng, xin nhủ lòng lân mẫn cứu độ muôn loài còn đang ngụp lặn trong bể khổ sông mê, sớm đủ duyên chạm được ánh từ quang mà vượt thoát. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát. Kệ kinh Kim Cang.- Những câu thơ song thất lục bát là trích trong văn bản “Văn tế thập loại chúng sinh” của thi hào Nguyễn Du Biển Dài – Mùa Vu Lan

Văn tế thập loại chúng sinh là thể loại gì?

Văn tế thập loại chúng sinh là một bài văn khấn tế, đề cập đến xã hội hồn ma một cách thảm thương nhất. Đó là hình ảnh lộn trái của xã hội trần thế, song khác biệt cơ bản ở chỗ không có đối lập giàu nghèo, sang hèn.

Văn tế thập loại chúng sinh của ai?

Bài thơ: Văn tế thập loại chúng sinh [Nguyễn Du - 阮攸]

Thập loại chúng sinh gồm những gì?

Phật giáo Mật truyền khi được truyền vào Trung Quốc đã xuất hiện truyền thống « thí thực » tức bố thí đồ cúng cho cô hồn ngạ quỷ, truyền thống này được ghi lại trong « Du già tập yếu thí thực nghi quỹ » với danh sách « thập loại chúng sinh » gồm vua chúa vương hầu, tướng soái, tể thần, văn nhân tài tử, tăng ni, đạo sĩ, ...

Vẫn chiêu hồn của Nguyễn Du còn có tên gọi khác là gì?

Bài Chiêu hồn thập loại chúng sinh [còn gọi là Văn tế thập loại chúng sinh hay Văn chiêu hồn] của Nguyễn Du với chỉ 184 câu thơ song thất lục bát, đã trở thành một kiệt tác bất hủ trong di sản văn hóa tinh thần của nhân loại.

Chủ Đề