Ak47 giật vào vị trí nào trên cơ thế năm 2024

Kỹ sư người Nga Mikhail Kalashnikov đã làm thay đổi cả thế giới khi ông chế tạo ra súng trường tấn công bộ binh huyền thoại AK-47. AK-47 là một trong những loại súng trường tấn công thông dụng của thế kỷ 20. Hàng chục triệu khẩu AK-47 Kalashnikov đã được lưu hành trên thế giới.

Súng trường AK-47. Ảnh: Worldguns.

Dù khẩu súng này đạt được rất nhiều thành tựu nhưng trong thập kỷ 1960, Liên Xô vẫn tiến hành một cuộc cách mạng về cỡ đạn để cho ra đời dòng súng trường AK-74, phiên bản hiện đại hóa sâu rộng của AK-47. Hình dáng bên ngoài giữa hai mẫu súng khá giống nhau song chúng có sự khác biệt rất lớn.

Lịch sử ra đời

AK-47 được sáng chế vào năm 1947 và bước vào giai đoạn sản xuất đại trà năm 1949. Nó nhanh chóng trở thành súng trường tiêu chuẩn cho các lực lượng của Liên Xô, chủ yếu được biết đến với tên gọi AKM. Mikhail Kalashnikov và quân đội Liên Xô đã thiết kế mẫu súng này dựa trên khẩu súng trường tấn công đầu tiên trên thế giới, STG 44.

Vào thời điểm đó, nó đáp ứng quan điểm của Liên Xô về chiến tranh hiện đại khi mà hầu hết các cuộc giao tranh của lực lượng bộ binh diễn ra trong phạm vi 300m. AK-47 sử dụng đạn cỡ 7.62 x 39 mm được thiết kế có tầm bắn hiệu quả trong cự ly 300m.

AKM không chỉ phục vụ tốt cho Nga mà còn gây được tiếng vang trên toàn thế giới. Từ Đông Âu, châu Á đến Trung Đông và Nam Mỹ, AK-47 len lỏi vào mọi trận địa. Ngày nay, nó có mặt trong kho vũ khí của nhiều lực lượng quân đội, cảnh sát, thậm chí nằm trong tay của các băng nhóm tội phạm và khủng bố. Nếu một quốc gia nào có xung đột thì ở đó xuất hiện AK-47.

AK-74 ra đời vào năm 1974 và nhanh chóng thay thế AK-47 trở thành súng trường chủ lực của quân đội Liên Xô và sau đó là quân đội Nga. AK-74 do nhóm thiết kế của А.D. Kryakushin chế tạo dưới sự giám sát của Mikhail Kalashnikov. Sự ra đời của súng trường này, được xem là cách Liên Xô khắc phục các nhược điểm vốn có trên AK-47. Chính nó đã giúp Quân đội Nga không quá tụt hậu so với các nước phương Tây sau khi Liên Xô tan rã.

Về cơ bản, AK-74 sử dụng các hệ thống cốt lõi của AK-44. Nó đã sớm được thử lửa trong cuộc chiến tranh Xô Viết – Afghanistan [1979-1989]. AK-47 có một số đặc tính giống với súng trường M16 của Mỹ và được giảm cỡ nòng để sử dụng loại đạn trung bình 5,45 x 39 mm.

Lợi thế của AK-47

Trước hết, nhờ cỡ nòng lớn hơn 30 caliber, AK-47 có thể phá hủy các rào cản, xuyên thủng mọi chướng ngại như gạch, gỗ, kính trong khi hầu như không giảm tốc độ. Đạn 7.62 × 39 mm có khả năng phá hủy và xuyên thủng các vật thể rất tốt.

AK-47 có nhiều chế độ bắn với tốc độ bắn liên thanh đạt 600 phát /phút. Đạn của súng AK-47 rời nòng với vận tốc 715 m/s. Hơn nữa, do đặc tính dễ sử dụng và có thể hoạt động tốt trong mọi môi trường, nên AK-47 được ưa chuộng hơn nhiều so với vũ khí cùng loại của các quốc gia khác. Giá thành của nó cũng khá rẻ so với nhiều loại súng trường của Mỹ.

Video: Nga chứng minh sức mạnh “đáng gờm” của súng trường tấn công AK-74. Nguồn: RT.

Lợi thế của AK-74

Khi nói về súng trường, kích thước không phải là điều quyết định tất cả. Thời kỳ súng trường cỡ nòng 7.62 x 39 mm thống trị chiến trường đã qua và người Nga đã nhận ra tiềm năng của một khẩu súng trường có cỡ nòng nhỏ hơn.

AK-74 sử dụng loại đạn 5,45 x 39 mm, nhỏ hơn và nhẹ hơn so với đạn của AK-47. Loại đạn này có xu hướng phân mảnh khi chạm vào vật thể, trái lại, đạn 7.62 × 39 mm tạo ra một lỗ xuyên thẳng. Dù vậy, cỡ đạn tiêu chuẩn 5,45 x 39 mm cũng chưa thực sự hoàn hảo.

Do có hộp đạn nhẹ hơn nên súng cũng có độ giật nhẹ hơn so với AK-47, vì thế các xạ thủ sẽ dễ dàng điều chỉnh khi ngắm bắn mục tiêu. AK-74 có tầm bắn hiệu quả từ 500 đến 800m tùy vào từng loại mục tiêu và tầm bắn tối đa có thể lên đến 3.000m. Xét ở góc độ quân sự, AK-47 cho phép khai hỏa tự động một cách có kiểm soát để thực hiện nỗ lực áp chế.

Do đạn của AK-74 có trọng lượng nhẹ hơn so với AK-47 nên người lính có thể mang theo nhiều băng đạn này khi ra chiến trường. AK-74 cũng được sử dụng tại nhiều quốc gia, nhưng vẫn không thể sánh được với sự phổ biến của AK-47.

Khi đặt AK-47 và AK-74 lên bàn cân rất khó để quyết định khẩu súng nào ưu việt hơn. Nếu xạ thủ muốn gia tăng tầm bắn, tăng khả năng kiểm soát và sử dụng đạn nhẹ hơn thì AK-74 sẽ là lựa chọn đầu tiên. Còn nếu xạ thủ muốn sử dụng loại đạn rẻ hơn và dễ dàng tìm kiếm các phụ kiện thay thế cho khẩu súng thì AK-47 sẽ là lựa chọn hợp lý./.

AK-47 kể từ khi chính thức được đưa vào sử dụng năm 1949 cho đến nay vẫn luôn nắm giữ vị trí là khẩu súng trường phổ biến nhất và mang lại hiệu quả sử dụng cao nhất ở khắp nơi trên thế giới.

Súng AK-47 là gì?

Súng trường tự động Kalashnikov, viết tắt là AK, là một trong những súng trường thông dụng của thế kỷ 20, được thiết kế bởi Mikhail Timofeyevich Kalashnikov. Một tên gọi thông dụng của súng này là AK-47. Theo phân loại của khối Xã hội chủ nghĩa, AK-47 thuộc loại tiểu liên, họ súng máy. Theo phân loại của NATO, AK-47 thuộc loại súng trường tấn công, cũng thuộc họ súng máy [machine gun].

Cho đến thời điểm đầu thế kỷ 21, dù đã có 70 năm tuổi thọ song AK-47 và các phiên bản của nó vẫn là thứ vũ khí được ưa chuộng nhất, được lựa chọn là vũ khí tiêu chuẩn bởi trên 50 quân đội, ngoài ra nó còn phục vụ rất nhiều các lực lượng vũ trang, du kích khác tại hơn 100 quốc gia trên thế giới.

Súng trường tự động Kalashnikov hay súng AK.

Chi phí thấp, độ tin cậy, và hiệu quả rất cao trong điều kiện chiến đấu khắc nghiệt của loại súng này làm cho nó trở thành loại vũ khí cá nhân thông dụng nhất thế giới. Tầm bắn hiệu quả nhất của AK-47 trong khoảng 400 mét, chuyên dùng để tác chiến tầm ngắn và tầm trung. Các phiên bản mới hơn có thể đạt tầm bắn hiệu quả xa hơn, khoảng 500 mét.

Với những ảnh hưởng của mình, AK-47 đã được gọi là một biểu tượng trong quân sự, một thứ vũ khí làm thay đổi bộ mặt chiến tranh. Hiện tại AK-47 đang là vũ khí cá nhân tiêu chuẩn cho quân đội của hơn 60 quốc gia trên thế giới. Rất nhiều quốc gia khác nữa sử dụng AK-47 cho các lực lượng cảnh sát, Biên phòng. AK-47 còn là lựa chọn của các lực lượng nổi dậy và tội phạm trên khắp thế giới do độ bền cao và giá thành rẻ.

Nguyên lí thiết kế

Mặc dù Kalashnikov đã phủ nhận rằng AK-47 dựa trên khẩu StG 44 của người Đức, nhưng một số người vẫn cho rằng AK-47 đã chịu ảnh hưởng từ thiết kế của StG-44 khi xét về mặt bề ngoài, cả hai khẩu súng này đều đặt ống trích khí ở ngoài ốp tay trên trong khi M-16 của Mỹ thì để trong ốp tay trên.

Trên thực tế, cơ chế nạp đạn và hộp khóa nòng của AK-47 khác biệt hoàn toàn so với StG 44. AK-47, về hệ thống trích khí, sử dụng khóa nòng xoay [rotating bolt] còn StG-44 dùng khóa trượt [tilting bolt].

Một số người vẫn cho rằng AK-47 đã chịu ảnh hưởng từ thiết kế của khẩu súng StG-44 của Đức.

Sau khi viên đạn bay ra khỏi nòng, cả AK-47, M-16 và StG-44 đều trích lại một phần khí, phần khí này sẽ đẩy bệ khóa nòng ra sau; đối với AK-47 và M-16, bệ khóa nòng sau khi bị đẩy ra sau sẽ làm xoay thoi đẩy trước khi thoi đẩy đẩy nạp viên đạn tiếp theo vào ổ súng; đối với StG-44, bệ khóa nòng bị đẩy về sẽ kéo thoi đẩy về cùng 1 lúc để tạo khoảng trống để viên đạn tiếp theo được nạp vào ổ súng. Về hệ thống lò xo, kim hỏa và cơ chế tháo lắp hộp khóa nòng thì StG-44 thậm chí còn giống M-16 của Hoa Kỳ hơn là giống AK-47.

AK-47 đúng là đã tích hợp được những đổi mới công nghệ súng trường so với trước đó: quá trình điểm hỏa được thực hiện bằng bệ khóa nòng lùi có lò xo đẩy về, sử dụng cụm khóa nòng kiểu then xoay như khẩu M1 Garand/M1 Carbine. Nhóm thiết kế của Kalashnikov có điều kiện tiếp cận tất cả các loại vũ khí này và không việc gì phải "sáng chế lại cái bánh xe".

Kalashnikov kể lại: "Nhiều binh sĩ Quân đội Xô Viết hỏi tôi rằng làm thế nào để có thể trở thành một nhà thiết kế, và làm thế nào để thiết kế được Vũ khí mới. Câu hỏi này quả là khó trả lời. Mỗi nhà thiết kế có con đường riêng của mình, những thành công và thất bại của riêng mình. Nhưng có một thứ rõ ràng: trước khi cố gắng tạo ra cái gì đó mới, hãy bằng cảm nhận xem nó quan trọng sống còn đối với mọi thứ đã có trong lĩnh vực này hay không. Chính tôi đã cảm nhận được như vậy qua rất nhiều trải nghiệm của bản thân".

Quá trình phát triển súng AK-47

Giai đoạn sản xuất ban đầu đã có những khó khăn. Trong mẫu súng đầu tiên, tấm kim loại mỏng của bộ phận đẩy khóa nòng lùi bị bật ra. Khó khăn cũng xuất hiện khi thanh dẫn hướng được hàn thường gây ra nhiều hiện tượng trượt lẫy. Những nhà chế tạo không dừng lại, họ thay tấm kim loại mỏng có tác dụng giảm giật bằng một khối kim loại nặng hơn.

Quá trình thay thế này gây nên một số tốn kém nhưng khi sử dụng bộ phận đẩy về bằng tay của khẩu Mosin-Nagant trước đây, nó vẫn hoạt động nhanh và chắc chắn; bộ phận đẩy về của khẩu súng trường này được gia công lại và thay thế vào đó. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho Liên Xô không thể trang bị nhiều súng mới cho quân đội trước năm 1956.

Ở đa số các quốc gia thuộc khối Đông Âu, hiểu biết về vũ khí đơn giản chỉ cần là "súng AK".

Một khi những khó khăn trong sản xuất đã được khắc phục, phiên bản thiết kế lại có tên AKM [M nghĩa "hiện đại hoá" hoặc "nâng cấp", tiếng Nga: Автомат Калашникова Модернизированный [Avtomat Kalashnikova Modernizirovanniy]] được đưa vào sản xuất và trang bị năm 1959.

Việc sản xuất AK ở nước ngoài kể cả có giấy phép và không có giấy phép diễn ra khá phổ biến, trong đó nhiều nhất là mẫu AKM. Một phần do thương hiệu sản phẩm dễ hấp dẫn khách hàng nên mẫu này thường có số lượng chế tạo lớn hơn. Tất cả súng trường dựa trên thiết kế súng AK thường bị quy là AK - 47S ở miền tây, mặc dù đây chỉ là sửa đổi súng trường với 3 sản phẩm ban đầu đã được đưa ra sử dụng.

Ở đa số các quốc gia thuộc khối Đông Âu, hiểu biết về vũ khí đơn giản chỉ cần là "súng AK". Tấm hình phía trên bên phải minh họa sự khác biệt giữa kiểu sản phẩm thứ 2 nguyên bản và kiểu sản phẩm thứ 4 có thương hiệu, bao gồm sử dụng đinh tán chứ không phải là mối hàn trên sản phẩm có thương hiệu, cũng như cách tạo những gân sóng nhỏ trên ổ đạn làm cho ổ đạn có độ bền tốt hơn.

Vào năm 1978, Liên bang Xô Viết bắt đầu thay AK-47 và AKM của họ bằng súng trường thiết kế mới hơn: khẩu AK-74. Loại súng trường mới này và đạn chỉ bắt đầu được xuất khẩu tại các quốc gia Đông Âu khi Liên bang Xô Viết sụp đổ. Sự kiện nghiêm trọng này đã làm chậm lại việc sản xuất các vũ khí này của các nước trong khối Liên Xô cũ.

Chủ Đề