Vận dụng lý luận nhận thức duy vật biện chứng làm rõ nguyên lý giáo dục học đi đối với hành

MỞ ĐẦUTrong chủ nghĩa Mác-Lênin, lý luận nhận thức là một nội dung cơ bản củaphép biện chứng; đó là lý luận nhận thức duy vật biện chứng, tức học thuyết về khảnăng nhận thức của con người đối với thế giới khách quan thông qua hoạt độngthực tiễn; lý giải bản chất, con đường và quy luật chung của quá trình con ngườinhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan nhằm phục vụ hoạt động thựctiễn của con người. Xuất phát từ những lý do trên nhóm chúng tôi xin được phântích: “Những nguyên tắc nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng” để làm rõhơn về nội dung này.NỘI DUNGI. Khái quát1. Về khái niệm nhận thứcLý luận nhận thức hay còn gọi là nhận thức luận được hình thành từ khi triếthọc mới ra đời. Tất cả các trào lưu triết học đều xuất phát từ thế giới quan củamình để đưa ra những hệ thống quan điểm nhất định về vấn đề nhận thức [tức là trảlời câu hỏi]. Đó là việc con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không.Lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định con người có khảnăng nhận thức được thế giới và tìm ra chân lý. Mục đích của nhận thức là tìm racác quy luật nhằm biến đổi và cải tạo thế giới, bắt thế giới phục vụ mục tiêu, nhucầu, nhiệm vụ của bản thân con người. Như thế cũng có nghĩa là tìm ra chân lý.Bản chất của nhận thức là sự hiểu biết của con người về thế giới khách quanhay là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc con người ở trình độ cao.Nhận thức là một quá trình.Để nhận thức được cần có một thế giới khách quan, một bộ óc bình thườngvà hoạt động lao động. Nói cách khác đây là những yếu tố cấu thành hoạt độngnhận thức.2. Lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác dựa trên bốn nguyên tắc cơ bản+ Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, ở ngoài con người, độc lậpđối với cảm giác, tư duy và ý thức của con người - Hiện thực khách quan là đốitượng của nhận thức.+ Hai là, thừa nhận năng lực nhận thức thế giới của con người. Về nguyên tắckhông có cái gì là không thể biết. Dứt khoát là không có và không thể có đối tượngnào mà con người không thể biết được, chỉ có những cái hiện nay con người chưa1biết, nhưng trong tương lai với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, con ngườisẽ biết được. Với khẳng định trên đây, lý luận nhận thức macxít khẳng định sứcmạnh của con người trong việc nhận thức và cải tạo thế giới.+ Ba là, là một quá trình biện chứng, tích cực, sáng tạo. Quá trình nhận thức diễnra theo con đường từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng rồi từ tư duy trừutượng đến thực tiễn. Đó cũng là quá trình nhận thức đi từ hiện tượng đến bản chất,từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.+ Bốn là, cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức là thực tiễn. Thực tiễn cònlà mục đích của nhân thức, là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý của nhận thức. Nhậnthức là quá trình con người phản ánh một cách biện chứng, năng động sáng tạo thếgiới khách quan trên cơ sở thực tiễn lịch sử - xã hội.II. Phân tích những nguyên tắc nhận thức của chủ nghĩa duy vật biệnchứng1. Thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan và độc lập với ý thức conngườiTrong lịch sử triết học, triết học duy tâm quan niệm ý thức là một thực thểđộc lập, là thực tại duy nhất, từ đó cường điệu tính năng động của ý thức đến mứccoi ý thức sinh ra vật chất chứ không phải là sự phản ánh của vật chất. Còn các nhàtriết học duy vật đều thừa nhận vật chất tồn tại khách quan và ý thức là sự phản ánhsự vật đó. Tuy nhiên, do ảnh hưởng bởi quan niệm siêu hình - máy móc nên họ đãcoi ý thức là sự phản ánh sự vật một cách thụ động, giản đơn, máy móc, mà khôngthấy được tính năng động sáng tạo của ý thức, tính biện chứng của quá trình phảnánh.Khác với các quan điểm trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa trên cơ sở lýluận phản ánh: về bản chất, coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vàotrong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo; ý thức là hình ảnh chủ quancủa thế giới khách quan.1.1Nội dung nguyên tắcNguyên tắc này thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan và độc lập vớiý thức con người, đó chính là đối tượng của nhận thức.Theo Lê-nin: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại kháchquan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng tachép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.2Với định nghĩa trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng giữa vật chất và ý thứcquan niệm rằng vật chất có trước , ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức khithừa nhận vật chất tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức, thì sự nhận thức thế giớiphải xuất phát từ thế giới khách quan. Như vậy, với tư cách một phạm trù triết học,vật chất không tồn tại một cách trực quan, cảm tính, mà là sản phẩm khái quát củatư duy trừu tượng. Do vậy, không được đồng nhất vật chất với những dạng tồn tạicụ thể của nó [vật thể]. Tuy nhiên, vật chất không tồn tại tách rời với các sự vật cụthể mà nó luôn hiện thân trong muôn vàn các sự vật, hiện tượng của thế giới, từ vôcơ đến hữu cơ, từ vi mô đến vĩ mô, từ tự nhiên đến xã hội.Vật chất là tất cả những gì tồn tại khách quan, ở bên ngoài và độc lập với ýthức, cảm giác của con người dù con người có nhận thức được hay không. Đây làthuộc tính cơ bản của vật chất và là tiêu chuẩn thực tiễn để phân biệt vật chất với ýthức. Trong xã hội, vật chất tồn tại dưới dạng những quan hệ xã hội, đó chính làquan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ giữa con người với con ngườitrong quá trình sản xuất vật chất. Các quan hệ này được hình thành và tồn tại mộtcách khách quan, không lệ thuộc vào ý thức của con người.1.2 Ý nghĩa của nguyên tắcKhi khẳng định vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại kháchquan tồn tại độc lập với ý thức con người, Lênin đã khắc phục được hạn chế củachủ nghĩa duy vật trước Mác khi họ đồng nhất vật chất với những dạng cụ thể củavật chất. Mặt khác, khi chỉ ra thuộc tính cơ bản của vật chất là thực tại khách quan,tồn tại không lệ thuộc cảm giác, định nghĩa đã cung cấp một cơ sở khoa học đểnhận thức vật chất cả trong tự nhiên và trong xã hội.+Trong lĩnh vực khoa học tự nhiên: đã trang bị một thế giới quan khoa học cho cácnhà khoa học đi sâu nghiên cứu thế giới vi mô và vĩ mô để tìm ra những dạng tồntại mới của vật chất, qua đó khẳng định bản chất vật chất của thế giới cũng như sựtồn tại vô hạn, vô tận của nó.+Trong lĩnh vực khoa học xã hội: cho phép xác định cái gì là vật chất trong lĩnhvực xã hội. Đó chính là quan hệ vật chất của xã hội, đặc biệt là lực lượng sản xuấtvà quan hệ sản xuất. Từ đó, giúp các nhà khoa học có cơ sở lý luận để giải thíchnhững nguyên nhân cuối cùng của các biến cố xã hội và tìm ra các phương án tốiưu để hoạt động thúc đẩy xã hội phát triển.2. Thừa nhận năng lực nhận thức thế giới của con người2.1 Nội dung nguyên tắc3Nguyên tắc nêu ra nhận thức là sự phản ánh thế giới hiện thực khách quanvào trong đầu óc con người cho nên không có cái gì là không thể biết. Dứt khoát làkhông có và không thể có đối tượng nào mà con người không thể biết được, chỉ cónhững cái hiện nay con người chưa biết, nhưng trong tương lai với sự phát triểncủa khoa học và thực tiễn, con người sẽ biết được.Năm 1908, trong tác phẩm "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệmphê phán", đuợc xuất bản năm 1909 của mình, Lênin đã có những nội dung mangý nghĩa rất lớn về vấn đề nhận thức luận. Cụ thể, Lênin nêu lên những nguyên tắccủa nhận thức thông qua ba kết luận cơ bản, biểu hiện quan điểm của chủ nghĩaduy vật biện chứng. Kết luận thứ 2 khẳng định rõ ràng: “Dứt khoát là không có vàkhông thể có bất kỳ sự khác nhau nào về nguyên tắc giữa hiện tượng và vật tự nó.Chỉ có sự khác nhau giữa cái đã được nhận thức và cái chưa được nhận thức...”Thật vậy, ông đã thừa nhận năng lực nhận thức thế giới của con người trong đónguyên tắc then chốt khẳng định không có cái gì là không thể biết. Thế giới kháchquan tuy rộng lớn với rất nhiều sự vật hiện tượng tự nhiên cũng như xã hội nhưngsẽ không tồn tại các đối tượng mà con người không thể biết được. Xét trên tìnhhình thực tiễn, những cái hiện nay con người chưa biết, chưa khám phá, còn hoàinghi chỉ là sự chưa biết tạm thời. Trong tương lai, với sự phát triển của khoa họcvà thực tiễn, con người sẽ biết được, nhận thức được thế giới một cách toàn diệnnhất, đầy đủ nhất. Do đó, lý luận nhận thức Macxít đã tin vào con người, khẳngđịnh sức mạnh của con người trong việc nhận thức và cải tạo thế giới.2.2 Ý nghĩa của nguyên tắcĐây là một nguyên tắc nhận thức quan trọng của chủ nghĩa duy vật biệnchứng trong đó khẳng định khả năng nhận thức được thế giới của con người. Nhậnthức không tự nhiên sinh ra, nó là sự phản ánh của thế giới hiện thực khách quanvào bộ não của con người. Đây cũng chính là nguyên tắc của chủ nghĩa duy vậtbiện chứng giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học: tư duy củachúng ta có thể nhận thức được thế giới hiện thực không? Trong các quan niệm vàcác khái niệm của chúng ta về thế giới hiện thực, chúng ta có thể phản ánh đượcmột hình ảnh đúng đắn của hiện thực không?. Trước đây, phần lớn các nhà triếthọc thừa nhận con người có thể nhận thức được thế giới và cũng còn một số nhàtriết học như Hium và Cantơ phủ nhận khả năng nhận thức của con người.3. Nhận thức là một quá trình biện chứng, tích cực, tự giác, sáng tạo3.1 Nội dung của nguyên tắc4Nhiệm vụ của nhận thức là đạt đến chân lý, nghĩa là đến tri thức có nội dungphù hợp với hiện thực khách quan. Nhận thức không phải là một hành động tứcthời, giản đơn, máy móc và thụ động. Quá trình nhận thức diễn ra theo con đườngtừ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng rồi từ tư duy trừu tượng đến thựctiễn. Đó cũng là quá trình nhận thức đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biếtnhiều, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắchơn.Nhận thức của con người là một quá trình trong đó có nhiều giai đoạn, trìnhđộ, vòng khâu và hình thức khác nhau; chúng có nội dung cũng như vai trò khácnhau đối với việc nhận thức sự vật. Song quá trình nhận thức diễn ra theo conđường từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng rồi từ tư duy trừu tượng đếnthực tiễn:Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng: Trực quan sinh động cònđược gọi là giai đoạn nhận thức cảm tính; đây là giai đoạn con người sử dụng cácgiác quan để tác động trực tiếp vào các sự vật nhằm nắm bắt các sự vật ấy. Trựcquan sinh động bao gồm 3 hình thức là cảm giác, tri giác và biểu tượng; chúng lànhững giai đoạn kế tiếp nhau của hình thức nhận thức cảm tính. Trong nhận thứccảm tính đã tồn tại cả cái bản chất lẫn không bản chất, cả cái tất yếu và ngẫu nhiên,cả cái bên trong lẫn bên ngoài về sự vật. Nhưng ở đây, con người chưa phân biệtđược cái gì là bản chất với không bản chất, đâu là tất yếu với ngẫu nhiên, đâu là cáibên trong với cái bên ngoài. Yêu cầu của nhận thức đòi hỏi phải tách ra và nắm lấycái bản chất, tất yếu, bên trong, chỉ có chúng mới có vai trò quan trọng cho hoạtđộng thực tiễn và nhận thức của con người. Như vậy, dừng lại ở nhận thức cảmtính sẽ gặp phải mâu thuẫn giữa một bên là thực trạng chưa phân biệt được đâu làcái bản chất, tất yếu, bên trong, đâu là cái không bản chất, ngẫu nhiên bên ngoàivới một nhu cầu tất yếu phải phân biệt được những cái đó thì con người mới có thểnắm được quy luật vận động và phát triển của sự vật. Khi giải quyết mâu thuẫn ấy,nhận thức sẽ vượt lên một trình độ mới, cao hơn về chất, đó là tư duy trừu tượng.Tư duy trừu tượng là đặc trưng của giai đoạn nhận thức lý tính. Nhận thức lýtính là giai đoạn phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính,những đặc điểm bản chất của đối tượng. Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện chứcnăng quan trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái bản chất có tính quy luật của các sựvật, hiện tượng. Nhận thức lý tính được thể hiện với ba hình thức: khái niệm, phánđoán và suy lý. Tùy theo sự kết hợp các phán đoán theo trật tự nào [từ phán đoánđơn nhất qua phán đoán đặc thù, rồi tới phán đoán phổ biến hoặc ngược lại] màngười ta có được hình thức suy luận quy nạp hay diễn dịch.5Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn: Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tínhlà những nấc thang hợp thành chu trình nhận thức. Trên thực tế, chúng thường diễnra đan xen vào nhau trong một quá trình nhận thức; song chúng có những nhiệm vụvà chức năng khác nhau. Nếu nhận thức cảm tính gắn liền với hoạt động thực tiễn,với sự tác động của khách thể cảm tính, là cơ sở cho nhận thức lý tính thì nhậnthức lý tính, nhờ có tính khái quát cao, lại có thể hiểu biết được bản chất, quy luậtvận động và phát triển sinh động của sự vật; giúp cho nhận thức cảm tính có địnhhướng đúng và trở nên sâu sắc hơn.Tuy nhiên, nếu dừng lại ở nhận thức lý tính thì con người mới chỉ có đượcnhững tri thức về đối tượng, còn bản thân những tri thức ấy có chân thực haykhông thì con người chưa biết được. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải xác địnhxem những tri thức ấy có chân thực hay không. Để thực hiện điều đó, nhận thứcnhất thiết phải trở về với thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn, làm thước đotính chân thực của những tri thức đã đạt được trong quá trình nhận thức.3.2 Ý nghĩa của nguyên tắcNguyên tắc này vẫn giữ nguyên giá trị đối với vấn đề về nhận thức thời đạihiện nay. Nhận thức sâu sắc về thời đại có ý nghĩa trên nhiều phương diện, như xácđịnh chiến lược, sách lược; xây dựng, củng cố niềm tin cho con người vào sự pháttriển và tiến bộ xã hội; xác lập phương thức trong quan hệ quốc tế. Với việc nhậnthức đúng đắn, tích cực và sáng tạo sẽ giúp chúng ta nắm bắt đúng đắn khuynhhướng phát triển của xã hội từ hiện thực sinh động trong nước và quốc tế hiện nay.Việc nắm vững nguyên tắc nền tảng về nhận thức này có một ý nghĩa quantrọng trong hoạt động thực tiễn. Nó đòi hỏi khi xem xét, đánh giá mỗi sự vật, hiệntượng hay trong tất cả các lĩnh vực khác của khoa học, cần suy luận một cách biệnchứng. Nghĩa là đừng giả định nhận thức của chúng ta là bất di bất dịch và có sẵn,mà phải phân tích xem sự hiểu biết nảy sinh ra từ sự không hiểu biết như thế nào,sự hiểu biết không đầy đủ và không chính xác trở thành đầy đủ hơn và chính xáchơn như thế nào.4. Cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức là thực tiễn.Các nhà duy vật trước C.Mác đã có công lớn trong việc phát triển thế giớiquan duy vật và đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và thuyết không thểbiết. Tuy nhiên, lý luận của họ còn nhiều hạn chế, thiếu sót, trong đó hạn chế lớnnhất là không thấy được vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức, do đóchủ nghĩa duy vật của họ mang tính chất trực quan. Mác đã chỉ rõ rằng, khuyết6điểm chủ yếu, từ trước đến nay, của mọi chủ nghĩa duy vật [kể cả chủ nghĩa duyvật của Phoiơbắc] là không thấy được vai trò của thực tiễn.Có một số nhà triết học duy tâm, tuy đã thấy được mặt năng động, sáng tạotrong hoạt động của con người, nhưng cũng chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt độngtính thần, chứ không hiểu nó như là hoạt động hiện thực, hoạt động vật chất cảmtính của con người.Như vậy, kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót trongquan điểm về thực tiễn của các nhà triết học trước C.Mác, C.Mác và Ph.Ăngghenđã đem lại một quan điểm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đốivới nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Vớiviệc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận, hai ông đã thực hiện một bước chuyểnbiến cách mạng trong lý luận nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng. Lêninnhận xét: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơbản của lý luận về nhận thức”.4.1 Nội dung nguyên tắcThực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xãhội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội để thoả mãn nhu cầu của mình,thích nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới và để làm chủ thế giới. Thựctiễn có 3 loại hình cơ bản là: Hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xãhội và hoạt động thực nghiệm khoa học [bao gồm cả thực nghiệm khoa học tựnhiên và khoa học xã hội].Thực tiễn là cơ sở, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức: Ph.Ăngghen khẳng định: “… chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ không phảichỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất vàtrực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song songvới việc người ta đã học cải biến tự nhiên”.Con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng thực tiễn.Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức ở conngười được hình thành và phát triển. Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác độngvào thế giới, buộc thế giới phải bộc lộ những thuộc tính, những tính quy luật đểcho con người nhận thức chúng. Ban đầu con người thu nhận những tài liệu cảmtính, sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá…để phản ánh bản chất, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế giới,từ đó xây dựng thành các khoa học, lý luận. Như vậy, thực tiễn cung cấp những tàiliệu cho nhận thức, cho lý luận. Mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp đối vơi7người này hay người kia, thế hệ này hay thế hệ khác, ở trình độ kinh nghiệm hay lýluận xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Trong quá trình hoạt động thực tiễnbiến đổi thế giới, con người cũng biến đổi luôn cả bản thân mình, phát triển nănglực bản chất, năng lực trí tuệ của mình. Nhờ đó, con người ngày càng đi sâu vàonhận thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới, làm phong phú và sâu sắctri thức của mình về thế giới.Thực tiễn còn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận thức.Nhu cầu thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, kháiquát lý luận, nó thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các ngành khoa học. Khoa họcra đời chính vì chúng cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người.Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Nhận thức phải quay về phục vụ thựctiễn. Kết quả nhận thức phải hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn. Lý luận, khoa học chỉ cóý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn để thỏamãn các nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý của nhận thức: “Vấn đề tìm hiểuxem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toànkhông phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễnmà con người phải chứng minh chân lý…”. Tất nhiên, nhận thức khoa học còn cótiêu chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn lôgíc. Nhưng tiêu chuẩn lôgíc không thể thay thếcho tiêu chuẩn thực tiễn, và xét đến cùng, nó cũng phụ thuộc vào tiêu chuẩn thựctiễn.Cần phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý một cách biện chứng; tiêu chuẩnnày vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối: Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệtđối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân lý, thực tiễn ở mỗigiai đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý. Tiêu chuẩn thực tiễn có cả tínhtương đối vì thực tiễn không đứng nguyên một chỗ mà biến đổi và phát triển; trongquá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức, những tri thức đạt được trước kia vàhiện nay vẫn phải thường xuyên chịu kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo, tiếp tụcđược thực tiễn bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa và phát triển hoàn thiện hơn.Việc quán triệt tính biện chứng của tiêu chuẩn thực tiễn giúp chúng ta tránh khỏinhững cực đoan sai lầm như chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ hoặc chủ nghĩa chủ quan,chủ nghĩa tương đối.4.2 Ý nghĩa của nguyên tắc8Sự phân tích trên đây về vai trò thực tiễn đối với nhận thức, đối với lý luậnđòi hỏi chúng ta phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việcnhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn,phải “coi trọng tổng kết thực tiễn Việt Nam”. Nghiên cứu lý luận phải liên hệ vớithực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới các sai lầm của bệnhchủ quan, giáo điều, máy móc, bệnh quan liêu.Ngày nay, công cuộc đổi mới xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ởnước ta đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ và phức tạp đòi hỏi lý luận phải đi sâunghiên cứu để đáp ứng những yêu cầu đó. Chẳng hạn, đó là những vấn đề về chủnghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; về công nghiệp hoá,hiện đại hóa; về kinh tế thị trường; về đổi mới hệ thống chính trị, về thời đại ngàynay… Qua việc làm sáng tỏ những vấn đề do thực tiễn đặt ra trên đây, lý luận sẽ cóđược vai trò quan trọng, góp phần đắc lực vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta.III. Một số nhận xét và bài học rút raTrong số các nguyên tắc trên, thì nguyên tắc quan trọng nhất là nguyên tắcthứ ba [nhận thức là quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo].Bởi lẽ, nguyên tắc đã cho thấy quá trình biện chứng của nhận thức, sự năngđộng, sáng tạo trong nhận thức của con người, khắc phục những sai lầm của cácnhà triết học trước đó. Nhận thức trang bị cho con người tri thức về đối tượng cầncải tạo, cần tác động. Trên cơ sở những tri thức đó, con người xác định mục tiêu,đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, phương tiện,… đểthực hiện mục tiêu của mình, cải biến hiện thực khách quan. Các nguyên tắc nhậnthức của CNDVBC định hướng cho con người nhận thức đúng đắn, phù hợp vớiquy luật khách quan,cải biến thế giới khách quan theo hướng tích cực, có lợi chocon người. Bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, nhận thức có thểquyết định hành động của con người, quyết định sự đúng sai, thành bại của hoạtđộng thực tiễn.Nếu như không có nguyên tắc nền tảng này trong tư duy biện chứng duy vậtthì không thể khái quát hình thái kinh tế - xã hội, không thể phát hiện ra nhữngmâu thuẫn trong lòng xã hội là động lực quyết định xã hội tiến lên và những vấn đềmấu chốt của lịch sử xã hội, như quần chúng nhân dân là người sáng tạo chânchính ra lịch sử, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, quy luật phát triển của xãhội và khuynh hướng tất yếu của sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội thấplên hình thái kinh tế xã hội cao hơn với tư cách quá trình lịch sử - tự nhiên.9Từ việc phân tích các nguyên tắc như ở phần trên, ta có thể rút ra được mộtsố bài học cho công cuộc xây dựng đất nước như sau:Một là, phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan. Điều đócó nghĩa, trong nhận thức và hành động, con người phải tôn trọng hiện thực kháchquan, tuân theo các quy luật khách quan, xuất phát từ thực tế khách quan để đề racác chủ trương, đường lối. Đồng thời, phải dựa trên cơ sở thực tế khách quan đểkiểm nghiệm, đánh giá các chủ trương, đường lối đó. Nói cách khác chúng ta phảilấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình.Hai là, phát huy tính năng động chủ quan. Để phát huy tính năng động chủquan, đòi hỏi con người phải tôn trọng và biết làm chủ tri thức khoa học, truyền bátri thức đó vào trong quần chúng nhân dân để nó dẫn dắt quần chúng. Đồng thời,đòi hỏi mỗi người phải biết tự giác tu dưỡng, rèn luyện để hình thành, củng cốnhân sinh quan tiến bộ và nâng cao ý chí, nghị lực trong hoạt động thực tiễn.Nhận thức rõ vai trò tích cực của nhận thức, của nhân tố chủ quan, Đảng tađã xác định, trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa hiện nay, phải “lấy việcphát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bềnvững” [Văn kiện Đại hội Đảng VIII], đồng thời phải khơi dậy trong nhân dân lòngyêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam.Ba là, phải phòng, chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, tức là khắcphục tình trạng không tôn trọng quy luật khách quan, lấy ý chí áp đặt cho thực tế,lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược, sách lược, lấy ý muốn chủ quanlàm chính sách,… Phải phòng, chống và khắc phục bệnh bảo thủ, trì trệ, thụ độngvà bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, coi thường tri thức khoa học, coi thường lý luậntrong hoạt động nhận thức và thực tiễn.KẾT LUẬNPhép biện chứng duy vật ra đời là một quá trình hợp với quy luật phát triểncủa nhận thức. Phép biện chứng duy vật đã, đang và tiếp tục cung cấp cho chúng tahệ thống các nguyên tắc phương pháp luận phổ biến, thực sự khoa học và có hiệuquả trong nhận thức và hoạt động thực tiễn xã hội nói chung. Thực tiễn luôn xảy racác vấn đề hết sức phức tạp của từng nước, từng quốc gia, từng dân tộc và đặcđiểm văn hóa, kinh tế, xã hội… Do vậy việc vận dụng phép biện chứng duy vật đặcbiệt là những nguyên tắc nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng là vấn đềnguyên tắc đối với tất cả các Đảng Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế,trong đó có Việt Nam.10MỤC LỤC11

Video liên quan

Chủ Đề