Ứng dụng công nghệ trong chăn nuôi lợn

Một trong những nguyên nhân quan trọng góp phần đắc lực vào phát triển của ngành chăn nuôi là áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới từ thức ăn, con giống tới quá trình nuôi và xử lý môi trường.  

Một trại heo áp dụng công nghệ chuồng kín của C.P Việt Nam

Ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực

Theo Cục Chăn nuôi, trong những năm qua, nhiều tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới đã được áp dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực ngành chăn nuôi, từ sản xuất giống, thức ăn chăn nuôi tới quy trình nuôi, xử lý môi trường.

Ở khâu giống, khoảng 52.000 con bò sữa giống HF năng suất cao được nhập về nuôi ở nước ta [chiếm 31% tổng đàn] cho năng suất sữa từ 6.500-7.600 kg/chu kỳ, đã góp phần quan trọng làm tăng đáng kể năng suất đàn bò sữa. Công nghệ phối giống tinh bò phân biệt giới tính đã được ứng dụng tại Cty CP Bò sữa Mộc Châu, TH True Milk, Cty CP Sữa Đà Lạt…, đã đem lại thành công bước đầu, cho hiệu quả kinh tế cao với tỷ lệ bê cái sinh ra đạt 87-92%.

Hệ thống chăn nuôi lợn 4 cấp [cụ kỵ – ông bà – bố mẹ – thương phẩm] đang hình thành và phát triển nhanh. Hiện Việt Nam đã có khoảng 5 chuỗi sản xuất heo theo mô hình 4 cấp với quy mô từ 0,5-2 triệu lợn thịt hàng hóa/chuỗi, với hiệu quả tốt. Heo thịt từ những chuỗi này có chất lượng đồng nhất, tích hợp tối ưu công thức lai 4-5 máu từ giống cụ kỵ ban đầu. Công nghệ quản lý giống vật nuôi qua phần mềm quản lý, đánh giá giá trị giống ước tính và cho phép chọn lọc, ghép đôi giao phối các cá thể trong đàn để có giá trị giống cao nhất [áp dụng với đại gia súc, heo]… Về giống gia cầm, hiện các giống gà thịt tốt của thế giới như AA, ISA, Ross, Avian, Lohmann, Cobb… đều đã có ở Việt Nam. Các DN nhập giống chủ yếu từ công đoạn ông bà hoặc bố mẹ về để sản xuất ra con thương phẩm. Các giống vịt chuyên thịt cũng được NK nhiều, giúp cho Việt Nam hiện đứng thứ 2 thế giới về số lượng đàn thủy cầm…

Ở lĩnh vực sản xuất TĂCN, các công nghệ chế biến thức ăn công nghiệp hiện đại trên thế giới đã được nhập về và ứng dụng sản xuất tại Việt Nam, đặc biệt là công nghệ sản xuất thức ăn dạng lỏng dùng trong các trang trại chăn nuôi quy mô lớn, khép kín từ phối trộn nguyên liệu, cấp phát thức ăn đến từng ô chuồng, giúp làm tăng khả năng tiêu hóa, giảm chi phí thức ăn và tăng hiệu quả chăn nuôi. Một số công nghệ mới đã được ứng dụng như chế phẩm vi sinh vật cấy dạng bột và dạng lỏng trong chế biến thức ăn xanh theo phương pháp ủ chua cho kết quả tốt hơn đáng kể so với ủ chua truyền thống. Hay công nghệ TMR trong sản xuất thức ăn phối trộn cho bò sữa đã nâng cao năng suất sữa của đàn bò cả nước.

Ở khâu nuôi và xử lý môi trường, đã có nhiều công nghệ mới về kỹ thuật và quy trình chăn nuôi được áp dụng rộng rãi, nhất là ở khu vực chăn nuôi trang trại. Điển hình như công nghệ chuồng kín điều khiển được tiểu khí hậu chuồng nuôi, nhờ đó đảm bảo chủ động được nhiệt độ, độ ẩm trong chuồng nuôi phù hợp với sinh lý, sinh trưởng của vật nuôi, đảm bảo an toàn dịch bệnh, ngăn ngừa mầm bệnh xâm nhập.

Trong chăn nuôi gà, nhiều trang trại đã sử dụng hệ thống máng ăn, máng uống tự động, giúp tiết kiệm thức ăn, nước uống và chi phí dọn chuồng, tăng hiệu quả sử dụng thức ăn cũng như hiệu quả kinh tế. Hệ thống chuồng gà tự động có hệ thống cào phân tự động đưa ra nơi thu gom, máng thu trứng tự động và được dẫn truyền ra khu xếp khay. Máy ấp trứng tự động với công suất lớn có kho và hệ thống bảo quản đáp ứng yêu cầu trong quy trình ấp.

Các quy trình Năm phương thức chăn nuôi vịt an toàn sinh học; quy trình ấp trứng đa kỳ – đa giống và nuôi gia cầm bố mẹ đã được áp dụng trên toàn quốc trong nhiều năm qua, đem lại hiệu quả cho chăn nuôi và an toàn sinh học trong chăn nuôi gia cầm.

Trong chăn nuôi bò sữa, quy trình công nghệ cao trong vắt sữa tự động đã được áp dụng tại các trang trại bò sữa lớn như Mộc Châu, TH True Milk trong quy trình khép kín, sữa được lọc để loại bỏ tạp chất, được làm lạnh xuống dưới 4oC, sau đó chuyển về bồn chứa tổng của trang trại và được đưa về nhà máy chế biến. Công nghệ chế biến sữa hiện đại đã được áp dụng trong chế biến sữa, tạo nên các sản phẩm sữa được nguyên vẹn giá trị dinh dưỡng của sữa tươi, an toàn cho người sử dụng.

ề xử lý môi trường, công nghệ xử lý thông qua hệ thống biogas quy mô lớn, đệm lót sinh học, công nghệ ấu trùng ruồi đen và công nghệ giun đất đã được ứng rộng trong sản xuất. 

Tác động mạnh vào nâng cao năng suất, nuôi quy mô lớn

Theo Cục Chăn nuôi, trong 10 năm qua [2008-2018], ngành chăn nuôi đã có những bước phát triển rất rõ nét theo chiều sâu. Một minh chứng điển hình là mức tăng của sản lượng giết thịt ở nhiều nhóm vật nuôi chủ lực cao hơn nhiều so với mức tăng của tổng đàn.

Một mô hình chăn nuôi gà quy mô lớn [Ảnh minh họa]

Cụ thể, nếu như tổng đàn lợn chỉ tăng 2,4%, thì sản lượng giết thịt tăng tới 33,5%; sản lượng gia cầm giết thịt tăng tới 134,3%, gấp 2,4 lần mức tăng của tổng đàn [tăng 55,5%]; tổng đàn bò giảm 14,7% nhưng sản lượng giết thịt lại tăng 43,4%…

Mức tăng của sản lượng cao hơn rất nhiều so với mức tăng của tổng đàn, trước hết là nhờ năng suất tăng từ 15-20% ở từng đối tượng vật nuôi. Bên cạnh đó, là việc chuyển đổi 30% cơ sở chăn nuôi sang phương thức công nghiệp và chuyên nghiệp [tạo ra tương ứng trên 55% sản lượng thịt, trứng, sữa]. Riêng ở Đồng Nai, theo ông Lê Văn Gọi, PGĐ Sở NN-PTNT tỉnh này, đến nay, Đồng Nai đang có trên 2,5 triệu con heo và hơn 21 triệu con gà, thì trong đó, hơn 90% tổng đàn hiện thuộc về các mô hình chăn nuôi công nghiệp quy mô lớn.TS Kiều Minh Lực, Phó TGĐ C.P Việt Nam, cho rằng, việc năng suất vật nuôi tăng mạnh và hàng loạt cơ sở chăn nuôi chuyển sang mô hình công nghiệp và chuyên nghiệp quy mô lớn, có sự đóng góp rất lớn của các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới đã được áp dụng vào chăn nuôi trong những năm qua. Có thể thấy rõ điều này trong hệ thống chăn nuôi heo của C.P Việt Nam. Về sản xuất giống, nhờ áp dụng phương pháp tiên tiến về đánh giá di truyền trong chọn giống mà năng suất sinh sản trong hệ thống của C.P Việt Nam hồi năm 2000 là 21 con/nái/năm, nay đã tăng lên 26 con/nái/năm. Bên cạnh đó, những ứng dụng công nghệ mới về thiết kế chuồng trại, xử lý môi trường [biogas, hồ lắng, máy ép tách phân]… đã góp phần không nhỏ trong việc mở rộng quy mô của từng trang trại. Nếu như năm 2000, bình quân mỗi trang trại của C.P Việt Nam co 240 con nái, đến 2018 là 2.400 con nái; năm 2000 mỗi trang trại có bình quân 250 heo thịt, nay lên tới 12.000 heo thịt.

Ông Gabor Fluit, TGĐ De Heus châu Á, cho biết, 10 năm trước, giá thành chăn nuôi heo, gà ở Việt Nam cao hơn từ 25-30% so với giá thành sản phẩm tương tự ở Thái Lan. Với việc đẩy mạnh áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới trong chăn nuôi và sử dụng nguồn thức ăn chất lượng tốt, đến nay, nhiều trang trại chăn nuôi lớn ở Việt Nam đã có giá thành bằng hoặc thấp hơn so với Thái Lan. Đặc biệt, trong chăn nuôi gà công nghiệp, đã có những trang trại gà hạ được giá thành ở chỉ còn chưa tới 1 USD/kg, thấp hơn so với Thái Lan, EU…

Thời gian qua, ngành Nông nghiệp tỉnh đã chú trọng ứng dụng KHKT, nhằm nâng cao năng suất, giá trị, đáp ứng nhu cầu thị trường đối với các nông sản nói chung, lĩnh vực chăn nuôi nói riêng.

Lợn nái sinh sản được Công ty CP Thiên Thuận Tường nuôi trong chuồng kín, có hệ thống điều chỉnh nhiệt độ, theo dõi thường xuyên. Ảnh: Hạ An

Việc ứng dụng công nghệ vào chăn nuôi giúp giảm bớt sức lao động, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Những mô hình này ngày càng được cải tiến, nâng cấp độ chính xác, tốc độ làm việc và tối ưu chi phí. Tiêu biểu như Công ty CP Khai thác khoáng sản Thiên Thuận Tường [TP Cẩm Phả] ứng dụng công nghệ trong sản xuất chăn nuôi lợn: Hệ thống chuồng kín; đèn sưởi; máng ăn tự động; máy tiêm, máy bấm răng nanh; gắn chíp điện tử thẻ tai; hệ thống mái áp chống nóng bằng tôn lạnh; hệ thống quạt làm mát, phun tắm tự động..., góp phần nâng cao chất lượng con giống, sản phẩm, đảm bảo vệ sinh môi trường. Đây là đơn vị nuôi giữ giống lợn gốc của trung ương [150 con], hằng năm cung cấp khoảng 4.260 con nái bố, mẹ phục vụ thay thế, bổ sung đàn nái; đáp ứng cung ứng 60% nhu cầu con giống thương phẩm phục vụ chăn nuôi trên địa bàn tỉnh. Sản phẩm thịt lợn của Công ty được công nhận sản phẩm OCOP, đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, bán cho các siêu thị hoặc xuất bán quy mô lớn. Công ty đang mở rộng với quy mô trang trại giống hạt nhân; khu chăn nuôi lợn công nghệ cao; khu chăn nuôi gia cầm, bò và nhà máy sản xuất thức ăn, công suất 200-250 tấn/ngày.

Công ty CP Phát triển chăn nuôi và nông, lâm, ngư Phúc Long [huyện Tiên Yên] ứng dụng công nghệ thụ tinh nhân tạo trong sản xuất giống gà Tiên Yên đã nâng cao năng suất, chất lượng con giống; đảm bảo an toàn phòng, chống dịch bệnh, góp phần quan trọng duy trì và phát triển đàn gà Tiên Yên, từng bước khắc phục những nhược điểm trong sản xuất giống gà Tiên Yên theo phương pháp truyền thống.

Nhiều đơn vị chăn nuôi gia cầm áp dụng hệ thống dọn phân tự động; hệ thống quạt hút giảm nhiệt độ bằng bộ phận cảm ứng; công nghệ vi sinh hữu hiệu - EM để xử lý chất thải; công nghệ vaccine 4 bệnh; máy tiêm và máy phun hiện đại.

Sử dụng chế phẩm sinh học, máng ăn tự động, công nghệ xử lý chất thải [hầm biogas, đệm lót] đã được đa số các hộ chăn nuôi sử dụng [khoảng 15.000 hộ], góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi, tăng khả năng kháng bệnh cho đàn vật nuôi.

Việc cơ cấu lại vật nuôi đã tạo được nhiều chuyển biến tích cực. Đàn giống được cải thiện đáng kể. Nhiều giống vật nuôi mới có năng suất, chất lượng cao được đưa vào sản xuất phổ biến. Nhiều địa phương đã tổ chức liên kết theo chuỗi sản phẩm từ sản xuất đến thị trường, dưới các hình thức chăn nuôi gia công, HTX, doanh nghiệp và nông dân cùng làm; chuyển từ chăn nuôi nhỏ lẻ phân tán sang chăn nuôi tập trung. Đến nay, tỉnh phát triển các vùng chăn nuôi tập trung, như nuôi lợn tại TP Móng Cái [32ha], nuôi gà tại huyện Tiên Yên; các vùng chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung với 1.340,9ha. Số lượng trang trại chăn nuôi tăng từ 214 tang trại năm 2017 lên 240 trang trại năm 2020. Nhiều mô hình chăn nuôi áp dụng VietGAP được cấp chứng nhận. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; bước đầu hình thành chuỗi liên kết sản xuất chất lượng cao.

Cơ giới hóa trong lĩnh vực nông nghiệp nói chung, chăn nuôi nói riêng đã giúp giảm công lao động, giảm chi phí sản xuất, tăng thu nhập cho các hộ dân. Tuy nhiên, theo đánh giá của Chi cục Chăn nuôi và Thú y [Sở NN&PTNT], hiện quy mô chăn nuôi nông hộ vẫn chiếm tỷ lệ lớn [trên 90%], hệ thống chuồng trại tận dụng, không đồng bộ, nên việc áp dụng các tiến bộ KHKT vào sản xuất còn gặp nhiều khó khăn; trong khi đó, việc đầu tư máy móc, công nghệ đòi hỏi nguồn vốn lớn. Người chăn nuôi còn hạn chế về kiến thức khoa học để áp dụng vào thực tiễn. Do vậy, thời gian tới, các cấp, ngành cần tiếp tục tạo điều kiện cho người chăn nuôi tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư chuồng trại khép kín, tạo điều kiện về đất đai để xây dựng chuồng trại chăn nuôi, vùng chăn nuôi tập trung; ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất tập trung; tiếp cận với các giống mới có năng suất, chất lượng; kiến thức sử dụng các trang thiết bị hiện đại từ sản xuất đến giết mổ, chế biến sản phẩm.

Hiện tổng đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh là 336.072 con; trong đó đàn trâu 32.790 con, đàn bò 38.000 con, đàn lợn 261.249 con, đàn gia cầm 4.033.000 con. Sản lượng thịt xuất chuồng 5 tháng đầu năm 2021 đạt 48.534 tấn, tăng 1,2% so với kế hoạch kịch bản tăng trưởng và tăng 14,1% so với cùng kỳ năm 2020.

Nguồn: baoquangninh.com.vn

Sưu tầm: Minh Tâm – TTPP Lữ Gia

Video liên quan

Chủ Đề