Tướng cao văn khánh và cao văn viên năm 2024

Anh Cao Văn Khánh thuộc “thế hệ 1945” của Việt Nam, bao gồm những trí thức do trường Tây, ít nhất là trường Pháp-Việt đào tạo, rồi tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ. Có thể bao gồm những ai sinh ra từ 1910 đến 1939, tới Cách mạng tháng Tám 1945 ít nhất cũng 6-7 tuổi. Như vậy là có nhiều lớp tuổi trong một thế hệ, tôi tạm gộp là thế hệ 1945. Họ có một tính chất chung: sinh ra và lớn lên trong thời Pháp thuộc, bị thực dân nhồi sọ nhưng trong tiềm thức vẫn giữ được tinh thần dân tộc, nên khi gặp thời cơ là “xếp bút nghiên” phục vụ Tổ quốc, mỗi người một ngành. Anh Cao Văn Khánh thì “…theo việc đao cung”.

ôi là bạn đồng nghiệp dạy học và bạn hướng đạo của anh Khánh ở Huế vào những năm 1942-1945. Chúng tôi cùng dạy trường học tư thục Lyceum Việt Anh. Sau vì ghét tên chủ nhiệm Tây Lafférandrie, chúng tôi cùng một số thầy bỏ Việt Anh, lập trường riêng là Hồng Đức. Trường mới, tuy kiến trúc sơ sài, nhưng vẫn đông học sinh vì uy tín có nhiều thầy giỏi và tâm lý học sinh ghét tên chủ nhiệm Tây. Huế hồi đó có nhiều trường trung học tư vì học sinh từ Thanh Hóa đến Bình Thuận đều đổ về đây. Anh Khánh dạy toán, tôi dạy pháp văn và sử địa. Trong thời gian 1939-1945, các giáo viên tư thục Huế thuộc hai loại: một số chính trị phạm ở tù ra, một số trí thức thích làm việc nơi yên tĩnh và thơ mộng. Ngoài một số trưởng lão Cao Xuân Huy, Đào Duy Anh, Tôn Quang Phiệt, đa số còn lại thuộc thế hệ Quốc văn giáo khoa thư [học sinh học cuốn này từ 1925, như Tạ Quang Bửu, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Thanh Tịnh, Nguyễn Văn Bổng, Hoài Thanh, Tảo Trang, Phan Khắc Khoan…]. Họ đều theo tiếng gọi non sông năm 1945. Huế, bề ngoài im lìm, nhưng quốc dân luôn được nhắc nhở nhiệm vụ cứu nước, từ sự lưu đày của ông già Bến Ngự Phan Bội Châu.

Phong trào Hướng đạo ở Huế, dưới sự lãnh đạo của Tạ Quang Bửu, cũng là một hình thức “nhắc nhở”. Anh Khánh đã giới thiệu tôi vào Đội, tôi lấy biệt danh là Chim bói cá. Nhớ lại những buổi lửa trại vang lên những bài ca yêu nước Bạch Đằng giang, Ải Chi Lăng… Anh Khánh rất nhiệt tình. Đó là một nét tính cách của anh, đã làm gì là làm hết mình. Anh để lại cho tôi những ấn tượng khó quên: Một chàng trai cao lớn, thân hình cân đối, tính tình giản dị, nói năng cân nhắc, nụ cười hiền. Không ai đoán trước được một thầy giáo phong thái nho nhã như vậy lại có thể trở thành một vị tướng tài.

Ấn tượng nhất về anh là tính trung thực. Anh vào Đảng muộn. Đầu kháng chiến, là Khu trưởng duy nhất chưa vào Đảng. Anh tâm sự: “Trước 1945, mình không tham gia chính trị vì còn phải ở lại Huế săn sóc mẹ già. Đảng thành công, mình chưa muốn vào vì chưa có đóng góp gì”. Có người cho nghĩ thế là gàn, tạch tạch sè… Nhưng tôi nghĩ đó là lòng tự trọng. Anh còn nói “Mình chỉ muốn là người công dân tốt. Tổ quốc cần, đi đánh giặc. Xong lại về dạy học. Thế là mãn nguyện!”.

Trong ảnh: Bác Hồ và các vị Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp , Lê Liêm., Văn tiến Dũng. Hoàng văn Thái , Vuơng thừa Vũ , Cao văn Khánh

Không ngờ anh Khánh đánh Pháp, Mỹ đều giỏi. Quân đội ta có đến hàng trăm tướng, nhưng tướng Khánh nổi bật về hai điểm: Thứ nhất, anh là vị tướng luôn có mặt ở tuyến đầu [mặc dầu mãi đến năm 1974 mới được gọi là tướng], trong gần ba mươi năm, chỉ huy những trận đánh ác liệt nhất và mang lại những thắng lợi chiến lược: Sông Thao [1949], Biên giới [1950], Điện Biên Phủ [1954], Khe Sanh [1968], Đường số 9 [1971], Quảng Trị [1972], Tây Nguyên [1972-1974]. Thứ hai, anh cùng Lê Trọng Tấn được coi là những tướng có tầm tham mưu chiến lược. Từ năm 1953, hai tướng này đã được giao nhiệm vụ nghiên cứu chuyên đề tấn công tiêu diệt tập đoàn cứ điểm. Năm 1974 anh Khánh được điều về Bộ Tổng tham mưu, đúng vào lúc ta đang chuẩn bị giải phóng miền Nam. Đây là dịp để anh đóng góp các kinh nghiệm tham mưu và chỉ huy. Anh trở thành trợ thủ đắc lực của Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh. Theo lời Đại tướng “Đồng chí Cao Văn Khánh là một trí thức yêu nước, tham gia Cách mạng tháng Tám từ 1945. Anh là một cán bộ quân đội chỉ huy Đại đoàn 308, đánh những trận lớn trong kháng chiến chống Pháp, từng là tư lệnh B70 [Trị-Thiên] trong kháng chiến chống Mỹ, một người hăng hái trung thực, có nhiều kinh nghiệm hợp đồng binh chủng, được bộ đội tin yêu”.

Trong đời riêng, anh không được số phận ưu đãi. Đám cưới của anh ở hầm Đờ-Cát [De Castries] hai tuần lễ sau chiến thắng Điện Biên Phủ lãng mạn như truyện cổ tích, là đỉnh cao hạnh phúc đời anh. Anh đã gặp được ý trung nhân: chị Toản, nữ sinh Huế học trường Đồng Khánh dòng dõi hoàng tộc, đi giải phóng quân năm 15 tuổi. Đôi bạn đời quý mến nhau, nhưng trong 28 năm vợ chồng, ở nhà với nhau cộng lại chỉ khoảng 8 năm vì anh luôn ở chiến trường, chị là bác sĩ chuyên gia sản phụ khoa, cũng luôn đi công tác. Anh chị có bốn con thì một con trai bị tai nạn đường sắt, một cậu chết vì chất độc da cam, do từ 1966 đến 1974, anh Khánh chỉ huy đánh ở miền Nam, nhiễm chất độc hóa học. Anh mất năm 1980 vì ung thư gan cũng do chất độc da cam. Chị Toản chiều ý anh, từ chối để mộ ở Mai Dịch và đặt anh yên nghỉ tại nghĩa trang Yên Kỳ, gần ngôi mộ cậu con trai và những đồng đội Sư 308. Trên bia chỉ ghi Tướng Cao Văn Khánh, ngày sinh, ngày mất, quê quán. Không ghi thêm chức tước gì khác, đúng như tính cách anh: luôn chỉ nhận mình là một công dân, giặc đến thì đánh. Sau chiến tranh mong trở lại cuộc sống bình thường mà thôi.

Chủ Đề