Từ năm 2005 đến nay là bao nhiêu tháng

Tổng sản phẩm trong nước 9 tháng 2005 ước tính tăng 8,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 4,1%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10%; khu vực dịch vụ tăng 8,2%. Trong 8,1% tăng trưởng chung, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,8%; khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 4% và khu vực dịch vụ đóng góp 3,3%.

Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, giá trị tăng thêm nông nghiệp 3,5%, chủ yếu do lúa đông xuân tăng 252,7 nghìn tấn; chăn nuôi gia súc ổn định và phát triển nhanh, đàn gia cầm đã tăng trưởng; thuỷ sản tăng mạnh trong quí III. Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, giá trị tăng thêm của khu vực công nghiệp chế biến tăng 11%; công nghiệp điện nước tăng 12%; xây dựng tăng 8,9%. Khu vực dịch vụ có mức tăng trưởng 8,2%, cao hơn hẳn mức tăng 7% của 9 tháng 2004. Trong khu vực này, Thương nghiệp tăng 8,1% [cùng kỳ tăng 7,6%]; Khách sạn nhà hàng tăng 15,4% [cùng kỳ tăng 7,6%]; Vận tải, bưu điện, du lịch tăng 9% [cùng kỳ tăng 7,7%]...

Cơ cấu kinh tế ngành tiếp tục chuyển dịch theo chiều hướng tăng ở khu vực công nghiệp, xây dựng và giảm ở khu vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản. Tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng từ 40,47% trong 9 tháng năm trước lên 41,26% trong 9 tháng năm nay, trong đó công nghiệp từ 34,97 % lên 35,77%; tỷ trọng dịch vụ từ 37,88% lên 38,11%; riêng tỷ trọng nông, lâm nghiệp, thuỷ sản giảm từ 21,65% xuống còn 20,62%.

Tổng thu ngân sách Nhà nước 9 tháng ước tính đạt 82,3% dự toán cả năm, chủ yếu do tăng thu từ dầu thô nhờ giá bán dầu thô trên thị trường quốc tế liên tục tăng cao hơn nhiều so với mức giá khi lập dự toán. Trong tổng thu, các khoản thu nội địa đạt 76,8% dự toán cả năm, thu từ dầu thô đã vượt 7% dự toán và thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 72,6%. Các khoản thu chủ yếu trong thu nội địa nhìn chung đạt mức trên 75% kế hoạch năm.

Tổng chi ngân sách Nhà nước 9 tháng đã căn bản đáp ứng nhu cầu chi từ ngân sách Nhà nước, ước tính đạt 74,2% dự toán cả năm 2005, cao hơn tỷ lệ 71,1% của 9 tháng năm trước, trong đó chi cho đầu tư phát triển 70% [chi đầu tư xây dựng cơ bản đạt 69,3%]; chi trả nợ và viện trợ 77,5%; riêng chi thường xuyên 75,9% [thấp hơn tỷ lệ 79,2% của 9 tháng năm trước]. Những khoản chi lớn và quan trọng trong chi thường xuyên nhìn chung đều đạt tỷ lệ trên 75%: Bội chi ngân sách ở mức thấp so với GDP và bằng 48,9% mức bội chi dự toán cho cả năm, trong đó được bù đắp bằng nguồn vay trong nước là 68,4% và vay nước ngoài 31,6%.

Tổng sản phẩm trong nước 9 tháng năm 2005

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

Giá trị sản xuất khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 9 tháng năm 2005 ước tính đạt 125,87 nghìn tỷ đồng, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó nông nghiệp 93,61 nghìn tỷ đồng, tăng 4,3%; lâm nghiệp 4,72 nghìn tỷ đồng, tăng 0,8%; thuỷ sản 27,54 nghìn tỷ đồng tăng 9,7%. Cụ thể từng ngành như sau:

a. Nông nghiệp

Sản xuất lương thực: Diện tích lúa cả năm đạt 7339,5 nghìn ha, bằng 98,6% năm 2004, giảm 105,8 nghìn ha, chủ yếu do chuyển dịch cơ cấu cây trồng, cơ cấu mùa vụ, giảm diện tích năng suất thấp sang trồng cây khác hiệu quả hơn và nuôi thuỷ sản; mặt khác còn do ảnh hưởng thời tiết. Diện tích lúa đông xuân giảm 36,5 nghìn ha, lúa hè thu giảm 18,7 nghìn ha và lúa mùa giảm 50,6 nghìn ha. Năng suất lúa cả năm ước tính đạt 49,5 tạ/ha, tăng 1 tạ/ha so với năm trước; sản lượng đạt 36,3 triệu tấn, tăng 19,2 vạn tấn [+0,5%]. Nếu tính cả 3,7 triệu tấn lương thực có hạt khác thì sản lượng lương thực có hạt năm nay đạt 40,03 triệu tấn, tăng 44,9 vạn tấn so với năm 2004.

Sản lượng lúa đông xuân đạt 17,33 triệu tấn, tăng 252,7 nghìn tấn so với lúa đông xuân 2004, tiếp tục là vụ lúa được mùa, năng suất đạt 58,9 tạ/ha, tăng 1,6 tạ/ha.

Lúa hè thu: Năng suất chung cả nước ước tính đạt 44,1 tạ/ha, xấp xỉ hè thu 2004. Sản lượng lúa ước tính đạt 10,34 triệu tấn, giảm 88,2 nghìn tấn [-0,8%] so với vụ hè thu năm trước, một phần do diện tích gieo cấy giảm, ảnh hưởng của hạn hán xảy ra trên diện rộng ở miền Nam. Riêng lúa hè thu ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đạt sản lượng 8,67 triệu tấn, tăng 100 nghìn tấn so với vụ hè thu năm trước, do tăng cả diện tích [mở rộng diện tích lúa vụ 3] và năng suất.

Lúa mùa: Sản lượng lúa mùa dự kiến tăng thấp, chủ yếu do ảnh hưởng thời tiết ở các tỉnh phía Nam, ước tính diện tích lúa mùa đạt 834,5 ngàn ha, giảm 3,8%, do hạn hán. Sản lượng ước tính đạt 3,04 triệu tấn, chỉ tăng 59,6 nghìn tấn [+0,2%] so với năm 2004, chủ yếu là tăng ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long [giá lúa tăng cao nên người dân đã cải tạo đồng ruộng làm 1 vụ thuỷ sản, 1 vụ lúa mùa].

Sản xuất một số cây hàng năm và rau, đậu tăng khá. Sản lượng các cây công nghiệp lâu năm đều tăng so với năm trước, chủ yếu do diện tích cho sản phẩm tăng, mặc dù thời tiết nắng hạn gay gắt ảnh hưởng đến nguồn nước tưới: chè búp tăng 4%; cao su tăng 11,2%; hồ tiêu tăng 6,9%; điều tăng 10,6%; riêng cà phê giảm 6,4%. Sản lượng một số cây ăn quả ước tính cao hơn năm trước.

Theo kết quả điều tra chăn nuôi tại thời điểm 01/8/2005, đàn trâu cả nước có 2,9 triệu con, tăng 1,8% so với cùng kỳ; Đàn bò 5,54 triệucon, tăng 12,9%; Đàn lợn 27,43 triệu con, tăng 4,9%; Đàn gia cầm 219,9 triệu con, tăng 0,8%; sản lượng thịt lợn xuất chuồng đạt 2,29 triệu tấn, tăng 13,7%. Đến 01/7/2005, cả nước có 3684 trang trại chăn nuôi, tăng 37% so với cùng kỳ năm trước.

b. Lâm nghiệp.

Diện tích rừng trồng tập trung 9 tháng đầu năm đạt 140,5 nghìn ha, xấp xỉ cùng kỳ năm trước; số cây trồng phân tán bằng 100,1%; Sản lượng gỗ khai thác 9tháng [kể cả gỗ nguyên liệu giấy] tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước. Thời tiết nắng hạn kéo dài trên diện rộng gây ra nhiều vụ cháy rừng, bên cạnh đó hiện tượng phá rừng vẫn diễn ra ở nhiều địa phương. Cả nước có 8770 ha rừng bị thiệt hại, tăng 69,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích bị cháy 7094 ha [Kon Tum 1483 ha, Điện Biên 877 ha].

c. Thuỷ sản.

Sản lượng thuỷ sản 9 tháng ước tính đạt 2494 nghìn tấn, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng nuôi trồng đạt 948 nghìn tấn, tăng 15,5%; sản lượng khai thác 1546 nghìn tấn, tăng 3,5% [Khai thác biển 1408 nghìn tấn, tăng 3,8%] Giá thu mua cá tra, cá basa giảm nhiều so với cùng kỳ gây tâm lý chờ giá tăng, làm cho lượng cá quá lứa ngày càng nhiều; việc quy hoạch vùng nuôi, sản xuất và kiểm dịch giống thuỷ sản, cơ sở hạ tầng cho nuôi trồng thuỷ sản còn hạn chế... Trong khai thác, vụ cá năm nay thời tiết thuận lợi và xuất hiện nhiều chủng loại cá; tuy nhiên, giá xăng dầu tăng đã ảnh hưởng đến sản lượng và hiệu quả khai thác thuỷ sản.

Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 9 tháng năm 2005

Diện tích, năng suất và sản lượng một số loại cây trồng chủ yếu năm 2005 

Sản lượng thuỷ sản 9 tháng năm 2005 

3. Sản xuất công nghiệp

Giá trị sản xuất công nghiệp 9 tháng ước tính đạt 308,6 nghìn tỷ đồng, tăng 16,5% so với cùng kỳ năm 2004, trong đó, doanh nghiệp Nhà nước tăng 9,6%; ngoài Nhà nước tăng 24,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17,2% [dầu mỏ và khí đốt giảm 8%, các ngành khác tăng 26,7%]. Trong ba ngành kinh tế cấp I, giá trị sản xuất công nghiệp khai thác mỏ và khai khoáng tăng 9% so với 9 tháng năm 2004 [tăng thấp chủ yếu do dầu thô khai thác giảm 9%]; Công nghiệp điện, khí đốt và nước tăng 14,6% [điện sản xuất tăng 14%]; Công nghiệp chế biến tăng 17,7%, là mức tăng cao nhất so với hai ngành trên, đóng góp chính vào tăng công nghiệp cũng như tăng trưởng chung của nền kinh tế.

Sản lượng một số sản phẩm công nghiệp chế biến chủ yếu có tốc độ tăng cao so với cùng kỳ và cao hơn mức tăng trưởng chung đã góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng của ngành công nghiệp như thuỷ sản chế biến tăng 16,6%; phân hoá học tăng 38%; thép cán tăng 18,6%; ô tô lắp ráp tăng 46,9%. Các sản phẩm chủ yếu khác tuy không tăng hơn mức chung nhưng cũng có mức tăng khá như: quần áo may sẵn tăng 11,9%; giấy, bìa tăng 11,4%; thuốc trừ sâu tăng 13,7%; xi măng tăng 14,2%; gạch lát tăng 13,5%; máy công cụ tăng 16,1%; động cơ điện tăng 16%; xe máy lắp ráp tăng 14,7%... Tuy nhiên, trong các sản phẩm công nghiệp chủ yếu, vẫn còn một số sản phẩm đạt thấp hơn mức sản xuất của cùng kỳ năm trước như đường mật, động cơ diezen, ti vi lắp ráp, xe đạp hoàn chỉnh...

Một số địa phương có quy mô sản xuất công nghiệp lớn trong cả nước có tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp 9 tháng cao như Hà Nội tăng 16,1%; Hải Phòng tăng 17,6%; Vĩnh Phúc tăng 37,1%; Hải Dương tăng 31,2%; Quảng Ninh tăng 17,9%; Đà Nẵng tăng 18,8%; Bình Dương tăng 33,8%; Đồng Nai tăng 21,7%; riêng thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp lớn nhất trong cả nước chiếm khoảng 26%, tăng 14%; Bà Rịa-Vũng Tàu tăng 13%. 

Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 9 và 9 tháng năm 2005

Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp tháng 9 và 9 tháng năm 2005 

4. Đầu tư­

Thực hiện vốn đầu tư phát triển 9 tháng năm 2005 theo giá thực tế ước tính đạt 226,7 nghìn tỷ đồng, bằng 75,6% kế hoạch năm. Trong tổng số, vốn Nhà nước chiếm 52,6%, vốn ngoài Nhà nước chiếm 30,2%, vốn đầu t­ư trực tiếp nước ngoài chiếm 17,2%.

Vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc vốn ngân sách Nhà nước 9 tháng năm 2005 ước đạt 41,19 nghìn tỷ đồng, bằng 79,3% kế hoạch cả năm; trong đó các đơn vị Trung ương 15,55 nghìn tỷ đồng, đạt 78,1% kế hoạch năm [Bộ giao thông vận tải chiếm 31,3% vốn đầu tư thực hiện 9 tháng, đạt 84,4%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chiếm 10,2% và đạt 86,6%; Bộ Xây dựng chiếm 5,5% và đạt 74%; các Bộ Thuỷ sản, Giáo dục Đào tạo và Y tế tỷ lệ thực hiện vốn còn thấp [từ 49,4- 53,8%]. Các đơn vị địa phương thực hiện 25,65 nghìn tỷ đồng bằng 80,1% kế hoạch năm.

Về đầu tư trực tiếp của nước ngoài, từ đầu năm đến 22/9/2005, trên phạm vi cả nước đã có 570 dự án mới được cấp giấy phép đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký 2643,9 triệu USD, so với cùng kỳ năm trước tăng 10% về số dự án, nhưng tăng 64% về vốn đầu tư đã đăng ký; qui mô vốn đầu tư bình quân một dự án được cấp phép mới trong 9 tháng năm nay đã tăng lên 4,6 triệu USD, cao hơn mức bình quân 3,1 triệu USD của cùng kỳ.

Số dự án mới được cấp phép đầu tư thuộc lĩnh vực công nghiệp, xây dựng là 386 với số vốn đầu tư 1256,9 triệu USD, chiếm 67,7% số dự án và 47,6% số vốn đăng ký; lĩnh vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản 60 dự án và 109,3 triệu USD, 10,5% về dự án và 4,1% về vốn; lĩnh vực dịch vụ 124 dự án và 1277,66 triệu USD, chiếm 21,8% số dự án và 48,3% vốn đầu tư.

Trong 9 tháng năm nay, 41 tỉnh, thành phố trong cả nước có dự án đầu tư nước ngoài mới được cấp phép, trong đó 5 tỉnh, thành phố có dự án đầu tư nước ngoài mới được cấp phép với tổng số vốn đầu tư trên 100 triệu USD là Hà Nội 1155,6 triệu USD, Đồng Nai 405,1 triệu USD, Bình Dương 235 triệu USD,  thành phố Hồ Chí Minh 203,3 triệu USD và  Hải Phòng 113,3 triệu USD. Có 36 nước và vùng lãnh thổ được cấp phép đầu tư mới vào Việt Nam. Các nước, vùng lãnh thổ có số vốn đăng ký đầu tư trên 200 triệu USD là: Luxembourg, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan và Nhật Bản. Hoa Kỳ và Xin-ga-po có các dự án đầu tư mới được cấp phép với số vốn đăng ký gần 100 triệu USD.

Cũng trong 9 tháng, có 361 lượt dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được tăng vốn 1449,4 triệu USD. Đã có 25 dự án của Việt Nam đầu tư ra nước ngoài với số vốn đầu tư là 84,8 triệu USD [trong đó có 9 dự án của Lào, 3 dự án của Hoa Kỳ]. 

Thực hiện vốn đầu tư xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước tập trung 9 tháng năm 2005

Đầu tư trực tiếp của nước ngoài 01/01 - 22/9/2005

5. Thương mại, giá cả và du lịch

Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ 9 tháng theo giá thực tế ước tính đạt 344,28 nghìn tỷ đồng, tăng 19,7% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố tăng giá, tổng mức tăng trên 10%, trong đó khu vực kinh tế Nhà nước chỉ tăng 0,5%; kinh tế tập thể tăng 20,7%; kinh tế cá thể tăng 19,2%; kinh tế tư nhân tăng 35,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 32,9%. Xét theo ngành kinh doanh, thương nghiệp chiếm 77,8% tổng mức và tăng 17,9% so với cùng kỳ năm trước; khách sạn, nhà hàng tăng 29%, dịch vụ tăng 23,5%.

Giá tiêu dùng tháng 9/2005 so với tháng trước tăng 0,8% là mức tăng cao nhất tính từ tháng 3 năm nay và cũng là mức tăng cao so với tháng 9 các năm tính từ 2001 trở lại đây. Trong 8 phân nhóm hàng hoá và dịch vụ có giá tăng, nhóm phương tiện đi lại, bưu điện đã tăng ở mức đáng kể [+3,8%], vượt xa mức tăng 0,4% của nhóm lương thực, thực phẩm và đã tác động mạnh đến giá tiêu dùng chung, góp 0,38 điểm phần trăm vào tăng giá tiêu dùng, gấp hai lần mức đóng góp của tăng giá nhóm lương thực, thực phẩm. Giá nhà ở, vật liệu xây dựng tăng 1,7%; giáo dục tăng 1,3%; may mặc, giày dép, mũ nón tăng 0,6%. So với tháng 12/2004, giá tiêu dùng tháng 9 năm 2005 tăng 6,8%, trong đó  giá của tất cả các nhóm hàng hoá và dịch vụ đều tăng, giá lương thực, thực phẩm tăng 8,4%; nhóm phương tiện đi lại, bưu điện tăng 9,8%, nhà ở, vật liệu xây dựng tăng 7,2% ... So với cùng tháng năm trước, giá tiêu dùng tháng 9/2005 tăng 7,8%, cao hơn mức tăng 7,3% của giá tiêu dùng tháng 8. 

Giá vàng tháng 9/2005 tăng 1,6% so với tháng trước và giảm 1,4% so với tháng 12/2004 và tăng 8,7% so với tháng 9/2004. Giá đô la Mỹ tháng 9 giữ ở mức tháng trước, tăng 0,6% so với tháng 12/2004 và tăng 0,7% so với tháng 9/2004. 

Tổng mức lưu chuyển ngoại thương 9 tháng năm 2005 ước tính đạt 52,89 tỷ USD, tăng 20,1% so cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 21,1% và nhập khẩu tăng 19,2%. Khoảng cách giữa tốc độ tăng xuất khẩu và tốc độ tăng nhập khẩu được thu hẹp dần, do nhập khẩu có xu hướng tăng chậm hơn xuất khẩu; nhập siêu 9 tháng 3,89 tỷ USD, bằng 16,6% kim ngạch xuất khẩu.

Tổng giá trị xuất khẩu thực hiện tháng 9 ước tính đạt 2,8 tỷ USD, giảm nhẹ so với mức 3,06 tỷ USD đã thực hiện trong tháng 8, nhưng tăng 24,1% so với tháng 9/2004. Tính chung 9 tháng, kim ngạch đạt 23,5 tỷ USD. Có 4 mặt hàng dầu thô, dệt may, giày dép và thuỷ sản đạt kim ngạch khoảng 2 tỷ USD trở lên và có thêm 3 mặt hàng đạt kim ngạch cỡ 1 tỷ USD trở lên là gạo; gỗ và sản phẩm gỗ; hàng điện tử, máy tính.

Xuất khẩu dầu thô 9 tháng tăng thêm 1,34 tỷ USD so với cùng kỳ, đóng góp tới 32,8% vào tăng giá trị xuất khẩu, chủ yếu do giá dầu thô xuất khẩu trong 9 tháng tăng thêm 46,4%, trong khi lượng xuất khẩu giảm 9,3%. Xuất khẩu gạo đạt 1,18 tỷ USD tương ứng với lượng 4,38 triệu tấn, tăng 52,5% về kim ngạch và tăng 32,6% về lượng so với 9 tháng năm 2004, giá xuất khẩu gạo bình quân 9 tháng tăng 15%. Xuất khẩu than đá tăng 78,9% về kim ngạch và tăng 35,6% về lượng; kim ngạch gỗ và sản phẩm gỗ đạt 1,08 tỷ USD, tăng 44,4%; hàng điện tử, máy tính đạt 1 tỷ USD, tăng 32,2%; hàng dệt may tăng 4,4%; giày dép tăng 12,3% và thuỷ sản tăng 13,1%. Tuy nhiên, trong 9 tháng lượng xuất khẩu cà phê, hạt tiêu, điều và chè giảm, do vậy giá trị xuất khẩu tương ứng [trừ hạt điều giá tăng nhanh hơn]. Thị trường hàng xuất khẩu của Việt Nam 8 tháng vẫn ổn định và tăng so với cùng kỳ, nhất là các thị trường lớn như Hoa kỳ, Nhật Bản, Ô-xtrây-lia, ASEAN và EU. 

Giá trị nhập khẩu 9 tháng 2005 đạt 27,39 tỷ USD, tăng 19,2% so với cùng kỳ năm trước, khu vực kinh tế trong nước 17,55 tỷ USD, tăng 17,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 23,1%. Tính đến nay, bình quân mỗi tháng nhập khẩu 3,04 tỷ USD.

Kim ngạch nhập khẩu của các nguyên, nhiên vật liệu chủ yếu phục vụ cho sản xuất trong nước đều tăng, trong đó các mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng trên 30% so với 9 tháng năm trước như xăng dầu, sắt thép, chất dẻo, giấy... Kim ngạch nhập khẩu tăng chủ yếu do giá nhập khẩu một số mặt hàng có giá trị lớn tăng hoặc đứng ở mức cao, nên lượng nhập khẩu không tăng tương ứng hoặc giảm so với cùng kỳ: lượng nhập xăng dầu tăng 8,2%, sắt thép tăng 14,2%, chất dẻo tăng 10,5%... Kim ngạch nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng đạt 3,83 tỷ USD, giảm nhẹ [-1,6%]; nguyên phụ liệu dệt, may, da 1,64 tỷ USD, giảm 0,4%; bông giảm 8,9%; phân bón giảm 13,8%... Riêng mặt hàng xe máy nhập khẩu 406 triệu USD, tăng 31,3% so với cùng kỳ, trong đó xe máy nguyên chiếc nhập khẩu tăng 138,1% [số lượng nhập 31 nghìn chiếc, bằng 3,7 lần cùng kỳ].

Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ 9 tháng năm 2005

Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ tháng 9 năm 2005 

Xuất khẩu tháng 9 và 9 tháng năm 2005

Nhập khẩu tháng 9 và 9 tháng năm 2005 

6. Vận chuyển

Vận chuyển hành khách 9 tháng đầu năm 2005 ước tính đạt 950 triệu lượt hành khách và 40,1 tỷ lượt hành khách.km, so với cùng kỳ năm trước tăng 6,8% về lượt khách và tăng 11,5% về lượt khách.km. Vận chuyển hành khách bằng đường bộ chiếm 84,7% số khách, tăng 7,4%; bằng hàng không đạt 4,7 triệu lượt khách, tăng 24,7% và tăng 29,3% về khách.km.

Vận chuyển hàng hoá đạt 237,4 triệu tấn và 59,2 tỷ tấn.km, tăng 7% về tấn và tăng 10,8% về tấn.km so với 9 tháng 2004. Vận chuyển hàng hoá bằng đường biển chiếm 77,5% tổng số tấn.km, tăng 12,3%, trong khi tính theo tấn chỉ chiếm khoảng trên 11% và tăng 7,9%. Vận chuyển hàng hoá bằng đường bộ tăng 7,5% và tăng 7,8; bằng đường sông tăng 5,7% và  tăng 4,1%. Mặc dù trong 9 tháng giá xăng dầu tăng cao, gây áp lực tăng cước phí vận chuyển, nhưng hoạt động vận chuyển 9 tháng đã đáp ứng được nhu cầu sản xuất và đi lại của dân cư, góp phần tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trật tự an toàn giao thông vẫn còn những diễn biến phức tạp cần được khắc phục.

Hoạt động kinh doanh du lịch 9 tháng đầu năm nay phát triển khá. Số lượng khách quốc tế đến Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2005 ước tính đạt 2,56 triệu người, tăng 20,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch tăng 31,5%; thăm thân nhân tăng 11,1%; vì mục đích khác tăng 25,7%. Riêng khách vào vì công việc 352,7 nghìn lượt người, giảm 6,9%. 

Vận tải hành khách và hàng hoá 9 tháng năm 2005

Khách quốc tế đến Việt Nam tháng 9 và 9 tháng năm 2005 

B. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI

1. Dân số, lao động và việc làm

Dân số trung bình năm 2005 ước tính 83,14 triệu người, tăng 1,35% so với năm 2004, trong đó dân số nam 40,86 triệu người, chiếm 49,1%; dân số nữ chiếm 50,9%; Dân số thành thị 21,97 triệu người, chiếm 26,4% và dân số nông thôn 61,17 triệu người, chiếm 73,6%.

Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế tại thời điểm 1/7/2005 là 42,62 triệu người, tăng 2,5% so với cùng thời điểm 2004, trong đó lao động trong khu vực Nhà nước chiếm 10%; khu vực ngoài Nhà nước chiếm 88,3% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 1,7%. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi khu vực thành thị năm 2005 là 5,1%, giảm 0,5 điểm phần trăm so với năm 2004.

Dân số trung bình năm 2005 

2. Đời sống dân cư

Đời sống dân cư 9 tháng năm nay nhìn chung ổn định. đời sống của đại đa số nông dân ổn định và được cải thiện do sản xuất nông nghiệp tăng, giá nông sản, thực phẩm cao; tỷ lệ hộ nghèo của cả nước và nhiều địa phương tiếp tục giảm, nhiều tỉnh đã không còn hộ đói. Tuy nhiên, tình trạng thiếu đói giáp hạt còn vẫn xảy đối với một bộ phận nông dân tại các tỉnh Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên, do hạn hán kéo dài và do ảnh hưởng mưa, bão. 

Công tác đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công và các đối tượng chính sách, đối tượng xã hội được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện. Các địa phương đã đẩy nhanh tiến độ xác nhận người có công còn tồn đọng qua các thời kỳ cách mạng; thực hiện trợ cấp thường xuyên cho các đối tượng người có công; thực hiện công tác bảo trợ và cứu trợ xã hội cho những đối tượng có hoàn cảnh khó khăn; 61 tỉnh, thành phố đã có Quỹ bảo trợ nạn nhân chất độc màu da cam. 

3. Văn hoá thông tin, thể dục thể thao

Hoạt động văn hóa thông tin tập trung vào công tác thông tin tuyên truyền các nhiệm vụ chính trị và kỷ niệm những ngày lễ lớn của dân tộc. Công tác phát thanh, truyền hình được đẩy mạnh, thời lượng phát sóng và chất lượng của các chương trình truyền thanh, truyền hình ngày ngày càng được nâng lên. Trong 9 tháng năm 2005, thời lượng các chương trình của Đài Truyền hình Việt Nam tăng 87% so với cùng kỳ năm 2004, số giờ phát sóng tăng 35%; số giờ chương trình của Đài Tiếng nói Việt Nam đạt 76,4% kế hoạch và số giờ phát sóng đạt 75,2%. Công tác thanh tra, kiểm tra văn hóa tiếp tục được tăng cường. Trong 9 tháng, đã xuất bản 12 nghìn cuốn sách với 185 triệu bản, đạt 85% kế hoạch năm.

Hoạt động thể dục thể thao: Trong 9 tháng, đã tổ chức thành công một số giải thi đấu như: Giải bóng bàn Cúp Hội nhà Báo lần thứ VII; Đại hội Thể thao “Khoẻ vì an ninh tổ quốc” lần thứ V; Hội thi thể thao các dân tộc thiểu số miền núi toàn quốc lần thứ IV ở các khu vực; Giải thể thao người khuyết tật toàn quốc...  Trong thể thao thành tích cao, tính đến 15/9/2005 đã triệu tập tập huấn tại các trung tâm huấn luyện thể thao quốc gia gần 1 nghìn vận động viên, huấn luyện viên, chuyên gia của 32 môn thể thao sẽ tham dự SEA Games 23. Đã tổ chức trên 100 giải thi đấu thể thao thành tích cao trong nước; tham dự nhiều giải quốc tế và đã đạt được kết quả cao, trong đó có một số thành tích đã đạt cấp châu lục.

4. Giáo dục và đào tạo

 Tổng kết năm học 2004-2005

Năm học 2004-2005 cả nước có 1484,7 nghìn học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở, đạt tỷ lệ tốt nghiệp 96,22% và 744,4 nghìn học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông, đạt 90,64%.

Số trường học, lớp học trong năm học vừa qua tăng so với năm học trước [trường mầm non, mẫu giáo tăng 4%; tiểu học tăng 1%; trung học cơ sở tăng 3,4% và trung học phổ thông tăng 9,9%]. Hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú và bán trú được củng cố, mở rộng với 13 trường Trung ương, 50 trường tỉnh; 266 trường huyện và 519 trường xã, cụm xã.

Quy mô học sinh tăng ở hầu hết các cấp học, trong đó số trẻ em đi nhà trẻ tăng 1,9%; học sinh mẫu giáo tăng 7,2%; học sinh trung học cơ sở tăng 0,7%; trung học phổ thông tăng 6,6%; riêng quy mô học sinh tiểu học giảm 7,2%. Năm học 2004-2005, cả nước có 112,8 nghìn giáo viên mẫu giáo; 362,4 nghìn giáo viên tiểu học; 302,5 nghìn giáo viên trung học cơ sở và 106,1 nghìn giáo viên trung học phổ thông. So với năm học trước, số giáo viên mẫu giáo tăng 5,8%; giáo viên trung học cơ sở tăng 4,2%; giáo viên trung học phổ thông tăng 7,4%; riêng số giáo viên tiểu học giảm 1%. Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên mức chuẩn năm học vừa qua cũng tăng so với năm học 2003-2004.

Bên cạnh những thành tích đạt được, trong năm học 2004-2005 cũng còn những tồn tại như thiếu giáo viên ở một số cấp học, môn học [giáo dục công dân, âm nhạc, mỹ thuật, thể dục, quốc phòng...]. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia còn thấp: trường mẫu giáo, mầm non đạt 3,2%, trường tiểu học 21,5%, trường trung học cơ sở 3,9% và trường trung học phổ thông 3,8% đạt chuẩn quốc gia. Ngoài ra, cả nước chỉ có khoảng 50% số trường học đảm bảo quy định về diện tích đất và 25% số trường học có đủ các phòng chức năng, phòng thí nghiệm, thư viện theo yêu cầu trường đạt chuẩn quốc gia.

Tình hình khai giảng năm học 2005-2006:

Năm học 2005-2006, cả nước có 462,8 nghìn trẻ em đi nhà trẻ, tăng 9,8% so với cùng kỳ năm trước và đạt 9,6% tổng số trẻ em từ 0-2 tuổi; 2547 nghìn học sinh mẫu giáo, tăng 9,3% và đạt 68% số trẻ em từ 3-5 tuổi. Số học sinh tiểu học là 7651,3 nghìn em, giảm 2,7% so với năm học trước; học sinh trung học cơ sở 6712,3 nghìn em, tăng 1,4% và học sinh trung học phổ thông là 3134,4 nghìn em, tăng 13,5%. Số giáo viên tiểu học là 306,6 nghìn người; giáo viên trung học cơ sở là 295,1 nghìn người và giáo viên trung học phổ thông là 106,6 nghìn người. So với định mức chuẩn, cả nước còn thiếu khoảng 8,5 nghìn giáo viên trung học cơ sở và 24 nghìn  giáo viên trung học phổ thông.

Tình hình tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2005:

Kỳ thi tuyển sinh đại học năm nay được tổ chức theo 2 đợt [1] cho khối A và [2] cho các khối B, C, D và năng khiếu. Số thí sinh dự thi đạt 74,9% thí sinh đăng ký, thấp hơn tỷ lệ 78% của kỳ tuyển sinh 2004. Mức điểm sàn cho kỳ tuyển sinh năm nay  là 15 điểm đối với khối A, khối B và 14 điểm đối với khối C, khối D. Đến nay các trường đã căn bản hoàn thành việc tuyển sinh, nhiều trường đã khai giảng và ổn định năm học mới.

5. Tình hình dịch bệnh

Từ đầu năm đến nay, số trường hợp mắc bệnh sốt rét trong cả nước là 59,7 nghìn trường hợp, trong đó 3 người đã tử vong, giảm 17% số người mắc bệnh so với cùng kỳ năm 2004. Cả nước có 26,5 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết, trong đó 28 người tử vong, giảm 46,5% số người mắc bệnh và giảm 62,2% số người tử vong; Tổng số mắc bệnh cúm tuýp A-H5N1 là 64 trường hợp, trong đó 21 người đã tử vong; tính từ trường hợp mắc bệnh cúm tuýp A-H5N1 đầu tiên ở nước ta [tháng 12/2003] đến nay, đã có 91 trường hợp mắc bệnh, trong đó 41 người đã tử vong. Có trên 3,8 nghìn trường hợp mắc bệnh viêm gan vi rút, trong đó 7 người tử vong và 919 trường hợp bị viêm não vi rút, trong đó có 43 người tử vong. So với 9 tháng năm 2004, số người mắc bệnh viêm gan vi rút giảm 12,4% và số người mắc bệnh viêm não vi rút giảm  30,3%. Có gần 2,6 nghìn trường hợp bị ngộ độc thực phẩm, trong đó 49 người tử vong; so với cùng kỳ năm trước, số trường hợp ngộ độc tăng 33,8%; số người chết tăng 32,4%.

Tình hình nhiễm HIV/AIDS, trong tháng 9 đã phát hiện thêm 1,4 nghìn trường hợp nhiễm HIV, nâng tổng số người nhiễm HIV trong cả nước đến nay lên 99,7 nghìn người, trong đó có 16,3 nghìn bệnh nhân AIDS và 9,3 nghìn người đã chết do AIDS.

6. Tai nạn giao thông

Tính chung 8 tháng đầu năm nay, trên phạm vi cả nước đã xảy ra 9,9 nghìn vụ tai nạn, làm 7,7 nghìn người chết và 8,5 nghìn người bị thương. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giảm 18,5%, số người chết giảm 6% và người bị thương giảm 23,7%. Bình quân 1 ngày trong 8 tháng năm nay xảy ra 41 vụ tai nạn, làm chết 32 người và làm bị thương 35 người. Đặc biệt thời gian qua đã xảy ra nhiều vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng làm chết và bị thương nhiều người.

7. Thiệt hại do lụt bão

Từ đầu năm đến nay đã xảy ra mưa to, gió lốc, lũ, sạt lở đất, áp thấp nhiệt đới và bão tại nhiều địa phương trên cả nước gây thiệt hại về người và tài sản. Theo báo cáo sơ bộ, thiên tai đã làm 143 người chết, và 226 người bị thương, làm trên 30 nghìn mét đê bị sạt lở, cuốn trôi; Khoảng 20 vạn ha lúa, hoa màu bị ngập, hư hại; 18,5 nghìn ha diện tích nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại; trên 1,7 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi; hàng vạn nhà bị tốc mái và nhiều công trình kinh tế-xã hội khác bị ảnh hưởng. Tổng giá trị thiệt hại trên 950 tỷ đồng.

Khái quát lại, kinh tế-xã hội nước ta 9 tháng đầu năm 2005 tiếp tục phát triển và ổn định. Các chỉ tiêu kinh tế-xã hội chủ yếu đạt cao hơn so với 9 tháng đầu năm trước. Tổng sản phẩm trong nước tăng 8,1% là tốc độ tăng tương đối cao so với tốc độ tăng của 9 tháng đầu năm trong những năm gần đây. Tốc độ tăng xuất khẩu nhanh hơn nhập khẩu, vì vậy đã giảm được nhập siêu. Thu ngân sách đạt 82,3% dự toán năm 2005 và tăng 24,8% so với cùng kỳ, đã đảm bảo được những khoản chi theo dự toán và bôị chi ngân sách ở mức thấp so với GDP.  Tình hình xã hội ổn định; văn hoá, y tế, giáo dục tiếp tục phát triển.

Với xu hướng phát triển của các ngành kinh tế hiện nay, sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ và sự nỗ lực vượt bậc của các ngành, các cấp nhằm đẩy mạnh sản xuất, kiềm chế mức độ tăng giá tiêu dùng và ảnh hưởng của giá nhập khẩu một số vật tư quan trọng đến sản xuất trong nước, sản xuất công nghiệp quí IV có thể đạt tăng trưởng cao hơn quí III, cả năm đạt tốc độ tăng trên 17%; nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng trên 5%, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tăng trên 20%; xuất khẩu tăng 20%. Tốc độ tăng GDP quí IV trên 9%, cả năm có thể tăng trên 8,4% so với năm 2004 và như vậy cơ bản sẽ đạt được mục tiêu tăng trưởng cho cả thời kỳ kế hoạch 5 năm 2001-2005.

Chủ Đề