Top đội thứ 3 có thành tích tốt nhất

So với bảng xếp hạng này tính từ thời điểm 20h ngày 12.1 đến 10h sáng 13.1, Việt Nam đã từ vị trí cuối cùng vươn lên vị trí thứ 5.

Lý do là vì trong trận đấu muộn vào đêm 12.1 giữa Lebanon và Saudi Arabia, đội Lebanon đã tiếp tục để thua với tỉ số 0-2 tại bảng E vòng chung kết Asian Cup 2019.

Sau hai trận thua trước Qatar và Saudi Arabia với cùng tỉ số 0-2, Lebanon vẫn chưa có điểm nào và giữ hiệu số -4.

Trong khi đó, với hiệu số -3, đội tuyển Việt Nam tạm thời vượt lên Lebanon để giành vị trí thứ 5.

Lao Động cập nhật bảng xếp hạng đội thứ 3 có thành tích tốt nhất tính đến 10h ngày 13.1 để độc giả tiện theo dõi.

Theo quy định của Ban tổ chức, chỉ có 4/6 đội xếp thứ 3 có thành tích tốt nhất có cơ hội vào vòng 1/8. Cơ hội vươn lên top 4 của Việt Nam vẫn còn, nhưng buộc phải thắng đậm trước lượt trận cuối với Yemen vào 16.1 tới.

Đứng đầu bảng xếp hạng đội đứng thứ 3 hiện là Thái Lan ở bảng A với 3 điểm. Tiếp đến là Syria của bảng B có 1 điểm.

Đội tạm đứng thứ 3 trên bảng xếp hạng giành vé vớt này là Turkmenistan mới chỉ đá một trận và để thua Nhật Bản với tỉ số 2-3 ở màn ra quân.

Tiếp đến là đội tuyển Kyrgyzstan cũng chưa có điểm sau hai lượt trận nhưng vẫn xếp trên Việt Nam nhờ có hiệu số tốt hơn là -2.

Trong tối 13.1, 3 trận đấu còn lại ở lượt trận thứ hai thuộc bảng E và F sẽ diễn ra là CHDCND Triều Tiên - Qatar, Oman - Nhật Bản và Turkmenistan - Uzbekistan. Cục diện bảng xếp hạng đội đứng thứ 3 có thành tích tốt nhất sẽ tiếp tục có sự thay đổi.

Quy tắc xếp hạng đội thứ 3 có thành tích tốt nhất căn cứ vào các tiêu chí theo thứ tự: Điểm số, Chênh lệch bàn thắng-thua, số bàn thắng, số thẻ phạt. Nếu các tiêu chí trên bằng nhau, Ban tổ chức sẽ phải bốc thăm để chọn đội đi tiếp.

Lao Động sẽ liên tục cập nhật bảng xếp hạng này.

Theo phân tích của truyền thông Châu Á, dù đang là đội đứng đầu trong bảng xếp hạng đội thứ ba có thành tích tốt nhất, tuyển Thái Lan vẫn có nguy cơ bị loại.

Bởi trong lượt trận cuối họ phải gặp chủ nhà UAE, đội bóng được đánh giá là mạnh nhất bảng A.

Hiện Thái Lan đang xếp vị trí thứ 3 tại bảng A [do thua Ấn Độ với tỉ số đậm 1-4 và chỉ số phụ]. Ở lượt đấu cuối, trường hợp có thể giành 1 điểm [kết quả hòa] trước UAE, thì dù kết quả trận đấu còn lại có như thế nào, Thái Lan vẫn chắc chắn đứng thứ 3 bảng A và có nhiều cơ hội để nằm trong top 4 đội đứng thứ 3 có thành tích tốt nhất.

Còn nếu thua, cơ hội tranh “vé vớt” vào vòng 1/8 phụ thuộc vào trận đấu còn lại. Nếu Ấn Độ thắng Bahrain, thì tuyển Thái Lan vẫn ở vị trí thứ 3 bảng A. Còn nếu Bahrain thắng Ấn Độ, thì tuyển Thái Lan có thể mất suất tranh đội thứ 3 có thành tích tốt nhất vì bị đẩy xuống cuối bảng A.

Bảng xếp hạng FIFA [FIFA World Rankings] là hệ thống xếp hạng dành cho các đội tuyển bóng đá nam trực thuộc Liên đoàn bóng đá thế giới [FIFA], với Argentina hiện đang là đội dẫn đầu. Các đội tuyển quốc gia thành viên của FIFA được xếp hạng bằng việc cộng điểm cho những trận thắng và trừ điểm đối với những trận thua, và đội nhiều điểm nhất sẽ được xếp hạng cao nhất. Tất cả các trận đấu cấp độ đội tuyển quốc gia đều được tính điểm trên bảng xếp hạng FIFA, bao gồm cả giao hữu. Các giải đấu trẻ [như Olympic, U20 World Cup, U23 châu Á, U23 châu Phi...] không được tính điểm.

Những trận đấu quan trọng hơn thì có ảnh hưởng nặng hơn cho việc giúp mang lại vị trí cao cho đội bóng, ví dụ như trận thắng tại World Cup được cộng nhiều điểm hơn trận đấu giao hữu, và chiến thắng trước một đội hạng cao sẽ được cộng nhiều điểm hơn thắng đội hạng thấp.

Bảng xếp hạng được giới thiệu lần đầu vào tháng 12 năm 1992. Hệ thống xếp hạng được sửa chữa sau World Cup 2006 với thông báo quan trọng về chuỗi xếp hạng mới được đưa ra vào ngày 12 tháng 6 năm 2009.

Trước hệ thống hiện nay, BXH được dựa trên thành tích của đội bóng trong 4 năm gần nhất, hiện tại hệ thống xếp hạng đã được cải tiến. Phiên bản hiện tại của hệ thống được sử dụng lần đầu tiên vào ngày 16 tháng 8 năm 2018, dựa trên hệ thống hệ số Elo dùng trong cờ vua và cờ vây, xếp hạng các đội trên cơ sở tất cả các thời kì. Sự thay đổi trên để đáp lại sự chỉ trích cho rằng những thứ hạng không thể hiện cân xứng với sức mạnh thực tế của các đội tuyển. [xem phần ]. Bảng xếp hạng này vẫn có sự khác biệt so với Bảng xếp hạng Elo bóng đá thế giới [World Football Elo Ratings] và bảng xếp hạng RSSSF [Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation], điều này đã tạo ra nhiều điều chỉnh khác nhau cho bảng xếp hạng FIFA. Tuy nhiên thì bảng xếp hạng này vẫn luôn được mọi người sử dụng và tham khảo phổ biến hơn rất nhiều so với bảng xếp hạng Elo và RSSSF.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Các đội dẫn đầu bảng xếp hạng FIFA

Vào tháng 12 năm 1992, FIFA lần đầu tiên công bố 1 danh sách thứ tự xếp hạng của các liên đoàn thành viên quy định 1 cơ sở để so sánh sức mạnh của các đội bóng. Từ tháng 8 năm sau, với sự tài trợ từ Coca Cola, danh sách được cập nhật thường xuyên hơn, được công bố trong đa số các tháng. Những thay đổi quan trọng được tiến hành vào năm 1999 và 1 lần nữa vào năm 2006, để chống lại các chỉ trích nhằm vào hệ thống. Số thành viên của FIFA tăng lên từ 167 thành 211 từ khi BXH ra đời. Trong lịch sử có một số trường hợp thành viên bị loại khỏi bảng xếp hạng vì không thi đấu 1 trận đấu quốc tế được công nhận nào trong hơn 4 năm, đó là São Tomé và Príncipe [từ tháng 12 năm 2007 đến tháng 11 năm 2011], Papua New Guinea [từ tháng 7 đến tháng 9 năm 2011] và Quần đảo Cook [từ tháng 7 năm 2019 đến tháng 3 năm 2022]. Hiện tại tất cả 211 thành viên đang được thống kê trong các bảng xếp hạng.

Thay đổi năm 1999[sửa | sửa mã nguồn]

Từ khi BXH ban đầu được giới thiệu, 1 đội nhận được 1 điểm cho 1 trận hòa và 3 điểm cho 1 trận thắng trong các trận thi đấu được FIFA công nhận, cũng tương tự như hệ thống tính điểm trong các giải đấu. Đây là 1 phương pháp tính toán khá đơn giản, nhưng FIFA đã nhanh chóng nhận ra rằng có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến các trận đấu quốc tế. Để đáp ứng các mục tiêu công bằng, khách quan và để so sánh chính xác sức mạnh tương xứng của nhiều quốc gia khác nhau, hệ thống được cập nhật. Các thay đổi chủ yếu như sau:

  • Bảng xếp hạng điểm được tăng cường bởi 10 nhân tố.
  • Phương pháp tính được thay đổi để đem vào các nhân tố tính toán bao gồm:
    • Số bàn thắng ghi được hay thừa nhận thua.
    • Trận đấu sân nhà hay sân khách.
    • Tính quan trọng của trận đấu hay cuộc thi.
    • Sức mạnh khu vực của đối thủ.
  • Một số điểm cố định được không nhất thiết trận đó thắng hay hòa.
  • Đội thua vẫn có thể nhận điểm.

2 danh hiệu mới được giới thiệu như là một phần của hệ thống:

Sự thay đổi đó làm cho hệ thống BXH phức tạp hơn, nhưng nó giúp cải thiện độ chính xác bởi vì nó đã toàn diện hơn.

Thay đổi năm 2006[sửa | sửa mã nguồn]

FIFA thông báo rằng hệ thống xếp hạng được cải tiến sau World Cup 2006. Thời gian đánh giá được giảm bớt từ 8 năm xuống còn 4 năm, và 1 phương pháp tính toán đơn giản hơn được sử dụng cho đến bây giờ để quyết định vị trí xếp hạng. Lợi thế số bàn thắng ghi được trên sân nhà hay sân khách không còn đem vào để tính toán nữa. Các khía cạnh khác như tầm quan trọng của các loại trận khác nhau đã được xem xét lại. Bộ phương pháp tính toán và bảng xếp hạng sửa đổi đầu tiên được thông báo vào ngày 12 tháng 7 năm 2006.

Sự thay đổi này được bắt nguồn ít nhất là từ một phần của cuộc chỉ trích lan rộng dành cho hệ thống xếp hạng trước kia. Nhiều người yêu bóng đá có cảm giác rằng nó không chính xác, đặc biệt khi so sánh với các hệ thống xếp hạng khác và cho rằng nó không đáp ứng đủ để phản ánh những thay đổi trong thành tích của từng đội bóng. Các thứ hạng cao đầy bất ngờ gần đây của Cộng hoà Séc và Mỹ đã vấp phải sự hoài nghi và ảnh hưởng tiêu cực đến sự tín nhiệm vào hệ thống dưới con mắt của nhiều nhà thể thao. Màn trình diễn nghèo nàn và việc bị loại sớm của 2 đội bóng trên tại vòng chung kết World Cup 2006 làm xuất hiện lên lòng tin vào các chỉ trích.

Thay đổi năm 2018[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 9 năm 2017, FIFA tuyên bố họ đang xem xét hệ thống xếp hạng mới và sẽ có quyết định cuối cùng sau khi vòng loại FIFA World Cup 2018 kết thúc nếu có bất kỳ thay đổi nào được thực hiện để cải thiện thứ hạng. FIFA thông báo vào ngày 10 tháng 6 năm 2018, rằng hệ thống xếp hạng mới sẽ được cập nhật sau FIFA World Cup 2018. Bắt đầu với bảng xếp hạng tháng 4 năm 2021, điểm của các đội hiện được tính đến hai điểm thập phân, thay vì được làm tròn đến số nguyên gần nhất.

Các đội dẫn đầu[sửa | sửa mã nguồn]

Từ khi hệ thống được giới thiệu, Đức là đội đầu tiên dẫn đầu sau khoảng thống trị kéo dài của họ khi đã 3 lần lọt vào trận chung kết của 3 VCK World Cup gần nhất và họ đã chiến thắng một trong 3 lần đó. Brasil nắm vị trí dẫn đầu trong hành trình đến World Cup 1994 sau khi thắng 8 và thua một trong 9 trận vòng loại, ghi được 20 bàn và để lọt lưới chỉ 4 bàn. Ý xếp đầu sau đó trong một thời gian ngắn khi đã hoàn thành thành công đợt vòng loại World Cup, sau đó đã bị Đức lấy lại. Sự thành công trong chiến dịch vòng loại dài giúp cho Brasil dẫn đầu BXH trong một thời gian ngắn. Đức lại dẫn đầu trong suốt VCK World Cup 1994, cho đến khi Brasil vô địch kì World Cup đó giúp họ có được một thời gian dẫn đầu rất lâu gần 7 năm cho đến khi họ bị vượt qua bởi Pháp, 1 đội mạnh trong thời gian đó khi đã vô địch World Cup 1998 và Euro 2000. Thành công tại World Cup 2002 giúp cho Brasil lấy lại vị trí đầu và giữ đến tháng 2 năm 2007, khi Ý trở lại dẫn đầu lần đầu tiên kể từ năm 1993 sau khi vô địch World Cup 2006 tổ chức tại Đức. Một tháng sau, Argentina lên thế chỗ Ý nhưng đã bị Ý lấy lại vào tháng 4. Sau chiến thắng tại Copa América 2007 vào tháng 7, Brasil trở lại nhưng chỉ 3 tháng sau vị trí này đã thuộc về Argentina. Vào tháng 7 năm 2008, Tây Ban Nha tiếp quản vị trí dẫn đầu lần đầu tiên sau khi vô địch Euro 2008. Brasil xếp thứ 6 nhưng đã trở lại dẫn đầu sau chiến thắng tại FIFA Confederations Cup 2009.

Mục đích của bảng xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]

BXH được dùng bởi FIFA để xếp hạng sự phát triển và khả năng của các đội bóng thuộc các quốc gia thành viên, và đòi hỏi họ tạo nên "1 thước đo chính xác để so sánh các đội". Chúng được dùng như một phần kết quả tính toán, hay 1 cơ sở toàn bộ để chọn hạt giống cho các giải đấu. Tại vòng loại World Cup 2010, BXH sẽ được sử dụng để chọn hạt giống cho các bảng trong các vòng loại khu vực thành viên bao gồm CONCACAF [sử dụng BXH tháng 5], CAF [sử dụng BXH tháng 7], và UEFA sử dụng BXH tháng 11 năm 2007.

Ngoài ra BXH này còn dùng để quyết định người đoạt 2 giải thưởng cho các đội bóng quốc gia hàng năm dựa trên cơ sở thành tích trong BXH.

Những sự chỉ trích[sửa | sửa mã nguồn]

Từ khi giới thiệu vào năm 1993, BXH FIFA đã là vấn đề của nhiều cuộc tranh luận, đặc biệt là về cách tính kết quả và những cách biệt thông thường về đẳng cấp và thứ hạng giữa một vài đội bóng. Ví dụ như Na Uy được xếp hạng 2 vào tháng 10 năm 1993 và tháng 7-8 năm 1995, và Mỹ xếp hạng 4 năm 2006, thực sự ngạc nhiên ngay cả với các cầu thủ của chính họ. Tuy nhiên, những sự chỉ trích về BXH không chân thực vẫn tiếp diễn ngay cả sau khi đưa ra công thức tính mới, với việc Israel leo lên hạng 15 vào tháng 11 năm 2008 cũng làm cho báo chí nước này rất bất ngờ, với việc Israel bỏ lỡ cơ hội lớn để chen chân vào top 10 sau khi thua Latvia tại lượt cuối của vòng loại.

Trước tháng 7 năm 2006, một trong những chỉ trích chính là BXH được tính bởi thành tích của đội bóng trong vòng 8 năm, và vị trí xếp hạng của đội không liên quan gì đến thành tích gần đây của đội. Sự chỉ trích này được giảm đôi chút với việc giới thiệu công thức tính mới, kết quả được tính trong 4 năm, giới thiệu vào tháng 7 năm 2006.

Sự thiếu sót được nhận thấy trong hệ thống của FIFA đã bắt đầu cho sự hình thành một số BXH khác từ những nhà thống kê về bóng đá bao gồm Hệ số Elo bóng đá và RSSSF [Tổ chức thống kê nghiệp dư bóng đá thế giới].

Phương pháp tính toán gần đây[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 10 tháng 6 năm 2018, hệ thống xếp hạng mới đã được FIFA phê chuẩn. Nó dựa trên hệ thống xếp hạng Elo và sau mỗi trận đấu, điểm sẽ được cộng hoặc trừ vào xếp hạng của đội theo công thức:

Trong đó:

: số điểm của đội trước trận đấu

: hệ số quan trọng, được xác định bởi:

  • 5: trận giao hữu diễn ra bên ngoài lịch thi đấu giao hữu quốc tế
  • 10: trận giao hữu diễn ra trong lịch thi đấu giao hữu quốc tế
  • 15: các trận đấu của giải vô địch bóng đá các quốc gia [vòng bảng]
  • 20: các trận đấu của giải vô địch bóng đá các quốc gia [vòng play-off và trận chung kết]
  • 25: các trận thuộc vòng loại các giải đấu cấp châu lục, vòng loại FIFA World Cup
  • 35: các trận thuộc vòng chung kết các giải đấu cấp châu lục [trước tứ kết]
  • 40: các trận thuộc vòng chung kết các giải đấu cấp châu lục [tứ kết và sau đó], các trận đấu của Cúp Liên đoàn các châu lục [FIFA Confederations Cup]
  • 50: các trận đấu trước tứ kết của FIFA World Cup
  • 60: các trận đấu của FIFA World Cup [tứ kết và sau đó]

: hệ số kết quả trận đấu

  • 0: thua trong thời gian thi đấu chính thức hoặc hiệp phụ
  • 0,5: hòa hoặc thua trong loạt sút luân lưu
  • 0,75: thắng trong loạt sút luân lưu
  • 1: giành chiến thắng trong thời gian thi đấu hoặc hiệp phụ

: kết quả mong đợi của trận đấu [hay điểm thưởng, được hiểu là "sức mạnh" chênh lệch giữa hai đội trước trận đấu], được tính bởi công thức

trong đó là chênh lệch điểm số giữa hai đội trước trận đấu.

Điểm tiêu cực trong giai đoạn loại trực tiếp của các giải đấu sẽ không làm ảnh hưởng đến xếp hạng của các đội.

Công thức tính toán giai đoạn 1993-1999[sửa | sửa mã nguồn]

Công thức xếp hạng giai đoạn 1993-1999 rất đơn giản và nhanh chóng trở nên được chú ý đến vì thiếu các nhân tố phụ. Các đội nhận được 3 điểm cho 1 trận thắng và 1 điểm cho 1 trận hòa.

Công thức tính toán giai đoạn 1999-2006[sửa | sửa mã nguồn]

Vào năm 1999, FIFA giới thiệu một hệ thống tính toán được sửa đổi, kết hợp nhiều thay đổi trong sự trả lời những sự chỉ trích về bảng xếp hạng không thích hợp. Để xếp hạng tất cả các trận đấu, số bàn thắng và tính quan trọng của trận đấu được ghi lại, và được sử dụng cho thủ tục tính toán. Chỉ các trận của các đội tuyển quốc gia nam lớn tuổi mới được tính. Các hệ thống xếp hạng riêng rẽ được dùng cho các cấp khác như các đội tuyển nữ và tuyển trẻ, ví dụ như Bảng xếp hạng bóng đá nữ FIFA. Bảng xếp hạng bóng đá nữ đã và đang dựa một hệ thống như là một kiểu của Hệ số Elo bóng đá thế giới.

Giải thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Mỗi năm FIFA trao 2 giải thưởng cho các quốc gia thành viên, dựa vào thành tích trên bảng xếp hạng. Đó là:

Đội bóng của năm[sửa | sửa mã nguồn]

Đội bóng của năm được trao cho đội bóng mà có tổng số điểm nhận được trong 7 trận là tốt nhất. Bảng dưới đây cho biết 3 đội bóng hay nhất của từng năm.

Năm Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba 1993

Đức
Ý
Brasil1994
Brasil
Tây Ban Nha
Thụy Điển1995
Brasil
Đức
Ý1996
Brasil
Đức
Pháp1997
Brasil
Đức
Cộng hòa Séc1998
Brasil
Pháp
Đức1999
Brasil
Cộng hòa Séc
Pháp2000
Brasil
Pháp
Argentina2001
Pháp
Argentina
Brasil2002
Brasil
Pháp
Tây Ban Nha2003
Brasil
Pháp
Tây Ban Nha2004
Brasil
Pháp
Argentina2005
Brasil
Cộng hòa Séc
Hà Lan2006
Brasil
Ý
Argentina2007
Argentina
Brasil
Ý2008
Tây Ban Nha
Đức
Hà Lan2009
Tây Ban Nha
Brasil
Hà Lan2010
Tây Ban Nha
Hà Lan
Đức2011
Tây Ban Nha
Hà Lan
Đức2012
Tây Ban Nha
Đức
Argentina2013
Tây Ban Nha
Đức
Argentina2014
Đức
Argentina
Colombia2015
Bỉ
Argentina
Tây Ban Nha2016
Argentina
Brasil
Đức2017
Đức
Brasil
Bồ Đào Nha2018
Bỉ
Pháp
Brasil

Đội bóng tiến bộ nhất của năm[sửa | sửa mã nguồn]

Đội bóng tiến bộ nhất của năm được trao cho đội bóng mà có sự thăng tiến trên bảng xếp hạng tốt nhất trong năm. Trong bảng xếp hạng FIFA, không đơn giản cho đội bóng nào để có thể vươn lên nhiều nhất, nhưng một công thức tính mới được đưa ra để giải thích các sự thật rằng nó trở nên khó kiếm nhiều điểm mà đội bóng có thể. Công thức được dùng là số điểm có vào cuối năm [z] nhân với số điểm nhận được trong năm [y]. Đội nào có chỉ số cao nhất trong công thức này sẽ nhận giải. Bảng dưới đây cho ta thấy top 3 đội tiến bộ nhất trong từng năm.

Giải này không còn là một giải chính thức kể từ năm 2006.

Năm Hạng nhất Hạng nhì Hạng ba 1993

Colombia
Bồ Đào Nha
Maroc1994
Croatia
Pháp
Uzbekistan1995
Jamaica
Trinidad và Tobago
Cộng hòa Séc1996
Nam Phi
Paraguay
Canada1997
Nam Tư
Bosna và Hercegovina
Iran1998
Croatia
Pháp
Argentina1999
Slovenia
Cuba
Uzbekistan2000
Nigeria
Honduras
Cameroon2001
Costa Rica
Úc
Honduras2002
Sénégal
Wales
Brasil2003
Bahrain
Oman
Turkmenistan2004
Trung Quốc
Uzbekistan
Bờ Biển Ngà2005
Ghana
Ethiopia
Thụy Sĩ2006
Ý
Đức
Pháp

Trong khi giải thưởng này không còn dùng vì sự thay đổi vào năm 2006, FIFA đã đưa ra một danh sách 'Những đội thăng tiến nhất' trong bảng xếp hạng từ năm 2007.. Công thức tính dựa vào sự thay đổi điểm số trong năm [khác với công thức dùng trong thời gian từ 1993 đến 2006]. Kết quả của các năm sau cũng có công thức tính cũng tương tự.

Năm Tiến bộ nhất Thứ hai Thứ ba 2007

Mozambique
Na Uy
New Caledonia2008
Tây Ban Nha
Montenegro
Nga2009
Brasil
Algérie
Slovenia2010
Hà Lan
Montenegro
Botswana2011
Wales
Sierra Leone
Bosna và Hercegovina2012
Colombia
Ecuador
Mali2013
Ukraina
Armenia
Hoa Kỳ2014
Đức
Slovakia
Bỉ2015
Thổ Nhĩ Kỳ
Hungary
Nicaragua2016
Pháp
Peru
Ba Lan2017
Đan Mạch
Thụy Điển
Bolivia2018
Pháp
Uruguay
Kosovo

Lịch trình xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]

Bảng xếp hạng bóng đá được công bố hàng tháng, thường vào ngày thứ Năm. Hạn chót cho các trận đấu để được cân nhắc là ngày thứ Năm trước ngày công bố. Bảng xếp hạng cập nhật ngày 19 tháng 7 năm 2018 đã bị hủy sau khi triển khai phương pháp tính toán mới.

Lịch công bố BXH 2023Ngày công bố 6 tháng 4 29 tháng 6 20 tháng 7 21 tháng 9 26 tháng 10 30 tháng 11

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Bảng xếp hạng bóng đá nữ FIFA
  • Hệ số Elo bóng đá thế giới
  • Tìm hiểu về Bóng đá là gì

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • ^ “Bảng xếp hạng FIFA/Coca-Cola thế giới”. FIFA. 20 tháng 7 năm 2023. Truy cập 20 tháng 7 năm 2023.
  • ^ “Thủ tục trong Bảng xếp hạng FIFA”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2020. Truy cập 28 tháng 3 năm 2008.
  • “Bảng xếp hạng FIFA sửa lại”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. 6 tháng 7 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 12 năm 2008. Truy cập 28 tháng 3 năm 2008.
  • “Sự mong đợi to lớn”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. 17 tháng 5 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2008. Truy cập 28 tháng 3 năm 2008.
  • “Italy, Denmark climb as qualifiers make their mark”. FIFA.com. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2021.
  • ^ “Điều khó hiểu trong bảng xếp hạng”. BBC Sport. 21 tháng 12 năm 2000.
  • “FIFA sửa lại bảng xếp hạng mới”. AP. 2 tháng 6 năm 2006.
  • “Chủ tịch FIFA khen ngợi sự làm việc của IFA”. The Jerusalem Post. 29 tháng 8 năm 2008. Truy cập 13 tháng 2 năm 2009. Blatter cũng được hỏi về vị trí không chính xác của Israel. Mặc dù không có tham gia 1 cuộc thi đấu quan trọng nào trong 38 năm, Israel vẫn được xếp hang 16 thế giới, xếp trên cả một số đội như Hi Lạp, Thụy Điển, Đan Mạch và Anh, vừa mới tụt 2 bậc.
  • “Bóng đá: Bảng xếp hạng FIFA chứng kiến Israel leo lên hạng 15 một cách đầy bất ngờ”. The Jerusalem Post. 13 tháng 12 năm 2008. Truy cập 13 tháng 2 năm 2009. Israel tiếp tục thăng tiến trên BXH của FIFA, leo lên hạng 15-vị trí tốt nhất của họ. Điều ngạc nhiên là một đội bóng chưa từng lọt vào bất kì giải đấu lớn nào trong 38 năm qua kể từ World Cup 1970, lại xếp trên một số đội như Hi Lạp [18], Nigeria [22], Thụy Điển [29], Scotland [33], Đan Mạch [34] và CH Ai Len [36].
  • “Lời mới nhất: Đã đến lúc giải thoát cho bảng xếp hạng FIFA”. The Jerusalem Post. 14 tháng 11 năm 2008. Truy cập 13 tháng 2 năm 2009. Israel vươn lên hạng 16 trong BXH mới nhất của FIFA, trên cả Mexico [25], Nigeria [22], Mỹ [24] và Colombia [40], chỉ đáp ứng một phần cho tính hiệu quả của BXH.
  • “Xem lại bảng xếp hạng FIFA tháng 11 năm 2008 [II]”. Football-Rankings.info. 20 tháng 10 năm 2008. Truy cập 13 tháng 2 năm 2009. Israel sẽ cải thiện [một lần nữa!] vị trí tốt nhất của họ, vượt qua hạng 15. Nếu họ thắng [thay vì hòa] trong trận gặp Latvia, họ sẽ ngang bằng với Nga [hạng 8].
  • “FIFA Rankings”. Travour.com. 1 tháng 6 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 6 năm 2006. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2009.
  • “Hệ thống xếp hạng bóng đá nữ”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 1 năm 2009. Truy cập 28 tháng 4 năm 2008. Top các đội thăng tiến nhiều nhất trong năm Lưu trữ 2009-03-20 tại Wayback Machine trên website của FIFA[PDF]

Chủ Đề