Tổ chức Hội nông dân với vai trò xây dựng giai cấp nông dân trong giai đoạn hiện nay

ĐỔI MỚI NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC []

I. KHÁI NIỆM VÀ SỰ CẦN THIẾT ĐỔI MỚI NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI NÔNG DÂN VIỆT NAM

1. Nội dung và phương thức hoạt động của Hội Nông dân Việt Nam

1.1. Nội dung hoạt động của Hội

Trong thời kỳ Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, Đảng thành lập tổ chức của giai cấp nông dân, làm nòng cốt để vận động tổ chức và giáo dục nông dân, đưa họ tham gia vào các phong trào hành động cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng các giai cấp, tầng lớp lao động khác thực hiện mục tiêu cao cả của cách mạng là giành chính quyền về tay nhân dân lao động. Trong quá trình hoạt động, tổ chức của giai cấp nông dân mà tiền thân là Nông hội đỏ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, muốn hoàn thành được nhiệm vụ của mình thì phải xác định được nhiệm vụ tổng quát của Hội trong thời kỳ này; đồng thời phải xác định được những nhiệm vụ cụ thể, trọng tâm, chủ yếu và những công việc phải thực hiện trong từng khoảng thời gian nhất định, nhằm từng bước thực hiện được nhiệm vụ của Hội.

Khi cách mạng thành công, chính quyền về tay nhân dân, Đảng trở thành Đảng cầm quyền, hệ thống chính trị được xây dựng để thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh trật tự và bảo vệ thành quả cách mạng. Trong đó, Hội Nông dân Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông dân, là một thành viên của hệ thống chính trị, có vai trò rất quan trọng trong thực hiện những nhiệm vụ nêu trên. Để góp phần cùng các thành viên trong hệ thống chính trị, toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ đó, Hội Nông dân Việt Nam phải xác định được nhiệm vụ tổng quát của mình; đồng thời phải xác định được nhiệm vụ cụ thể và những công việc phải giải quyết trong từng khoảng thời gian nhất định, thông thường là một nhiệm kỳ Đại hội của Hội để từng bước thực hiện được nhiệm vụ tổng quát đã được xác định.

Nội dung hoạt động của Hội phụ thuộc vào nhiệm vụ cách mạng, vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, vào chức năng nhiệm vụ của Hội, vào điều kiện, hoàn cảnh của đất nước, quốc tế, vào yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu phát huy vai trò của Hội đối với hoạt động của hệ thống chính trị và sự phát triển của đất nước

1.2. Phương thức hoạt động của Hội Nông dân Việt Nam.

Khi đã xác định được nội dung hoạt động của Hội thì vấn đề quan trọng đặt ra phải giải quyết là bằng cách nào để thực hiện được những nội dung đó, hay thực hiện những nội dung đó bằng cách thức, phương pháp nào.

Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “phương thức” là phương pháp và hình thức tiến hành công việc[1]; “phương pháp” là cách thức tiến hành công việc để có hiệu quả cao[2]. Có thể nói: “phương thức” là hình thức, phương pháp hay hình thức và cách thức tiến hành công việc để đạt hiệu quả cao.

Như vậy, nói đến “phương thức” thì phải gắn liền với hiệu quả công việc. Nếu xác định được phương thức hoạt động đúng đắn, phù hợp với công việc thì sẽ đạt hiệu quả cao. Ngược lại, nếu xác định phương thức hoạt động không đúng đắn, phù hợp với công việc thì hiệu quả thu được sẽ thấp, thậm chí không đạt hiệu quả.

Phương thức hoạt động của một tổ chức rất đa dạng, phong phú như: Bằng các chỉ thị, nghị quyết, qua các hội nghị, các cuộc sinh hoạt, bằng các quy định, quy chế, chế độ, lề lối làm việc, tác phong công tác.

Phương thức hoạt động của Hội Nông dân Việt Nam là hệ thống các hình thức, phương pháp, quy trình, lề lối làm việc, tác phong công tác… để triển khai thực hiện nội dung hoạt động của Hội.

Phương thức hoạt động của Hội quan hệ mật thiết với nội dung hoạt động của Hội và chịu sự chi phối của nội dung hoạt động. Nội dung hoạt động của Hội có tính quy định, chi phối và ràng buộc phương thức hoạt động của Hội. Nội dung hoạt động của Hội là cơ bản, còn phương thức hoạt động của Hội là quan trọng. Không có phương thức hoạt động đúng thì nội dung hoạt động không được thực hiện. Như vậy, chọn phương thức hoạt động phải trên cơ sở nội dung hoạt động của Hội, không được chủ quan, tuỳ tiện.

Phương thức hoạt động còn phụ thuộc vào trình độ, năng lực, đặc điểm về tổ chức bộ máy, cán bộ, hội viên của các cấp Hội, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt; phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh hoạt động của Hội, vào tình hình trong nước và quốc tế.

Trong quá trình hoạt động của Hội, không phải khi xác định xong nội dung hoạt động mới tiến hành xác định phương thức hoạt động mà hai việc này diễn ra liên tục và được bổ sung những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn hoạt động của Hội và phong trào của giai cấp nông dân. Để xác định được phương thức hoạt động thì trước tiên phải xác định được những điểm cơ bản của nội dung hoạt động, sau đó tiếp tục bổ sung và hoàn thiện.

2. Sự cần thiết đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Hội Nông dân Việt Nam

2.1. Xuất phát từ vai trò của nội dung, phương thức hoạt động của Hội đối với chất lượng, hiệu quả hoạt động Hội

Nội dung và phương thức hoạt động của Hội có vai trò đặc biệt quan trọng đối với chất lượng, hiệu quả hoạt động Hội. Nó xuyên suốt, bao trùm và chi phối toàn bộ hoạt động Hội kể cả trong xây dựng tổ chức và hoạt động thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, nhiệm vụ tổng quát của Hội trong từng thời kỳ cách mạng. Nội dung, phương thức hoạt động của Hội đảm bảo cho Hội hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình, khẳng định vị trí, vai trò của Hội trong hệ thống chính trị và trong xã hội, nâng cao uy tín của Hội, thu hút và tập hợp ngày càng đông đảo nông dân vào tổ chức Hội ở các cấp...

2.2. Xuất phát từ yêu cầu của công cuộc đổi mới, thực hiện nhiệm vụ CNH, HĐH đất nước, mà trước hết là CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn

Quá trình đổi mới đất nước chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa làm nảy sinh nhiều vấn đề tác động đến tư tưởng, tâm lý của nông dân. Vì vậy, muốn tổ chức Hội không ngừng phát triển, ngày càng thu hút được đông đảo nông dân vào Hội, gắn bó với tổ chức Hội đòi hỏi các cấp Hội phải đổi mới nội dung và phương thức hoạt động đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.

Sự phát triển đất nước hiện nay nói chung, yêu cầu về sự đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị nói riêng đang đặt ra yêu cầu đối với tổ chức Hội phải khẩn trương đầu tư nghiên cứu và có các giải pháp trong đổi mới nội dung và phương thức hoạt động để đáp ứng yêu cầu thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ CNH, HĐH đất nước, mà trước hết là CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Mục tiêu, nhiệm vụ ấy rất to lớn, nặng nề và hoàn toàn mới, được tiến hành trong điều kiện có những thời cơ, thuận lợi nhưng cũng gặp không ít khó khăn, thách thức. Thời cơ, thuận lợi và khó khăn, diễn biến rất phức tạp, có thể gây nên những bất trắc khó lường, đòi hỏi các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị phải vươn lên mạnh mẽ, trong đó phải đổi mới nội dung và phương thức hoạt động.

Sự lãnh đạo của Đảng là vấn đề quan trọng hàng đầu bảo đảm tính đúng hướng trong tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, trong đó có Hội Nông dân Việt Nam. Trong những năm qua, Hội Nông dân Việt Nam đã được Đảng quan tâm lãnh đạo, Nhà nước tạo điều kiện để Hội hoạt động xây dựng tổ chức không ngừng lớn mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhất là từ khi có Chỉ thị 59 CT/TW ngày 15-2-2000 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội Nông dân trong sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn” và Quyết định số 17/QĐ-TTg ngày 14-1-1998 của Thủ tướng Chính phủ về “Ban hành quy định trách nhiệm của các bộ, các cấp chính quyền trong việc tạo điều kiện cho Hội Nông dân hoạt động có hiệu quả”.

Cùng với thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, Chính phủ đã tiến hành cải cách hành chính, quán triệt quan điểm lấy dân làm gốc, tăng cường vai trò tham gia quản lý Nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội. Hội Nông dân Việt Nam là một thành viên trong hệ thống chính trị cũng phải đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động để làm tốt chức năng tham gia quản lý Nhà nước, tham gia xây dựng, kiểm tra giám sát việc thực hiện chính sách có liên quan đến nông dân, nông nghiệp, nông thôn nhằm đem lại quyền lợi thiết thực cho nông dân, góp phần quan trọng vào thành tựu của công cuộc đổi mới.

2.3. Xuất phát từ thực tiễn công tác Hội, phong trào nông dân trong nước và tình hình nông dân thế giới

Trong những năm qua, các hoạt động của Hội có chuyển biến mạnh mẽ, đã thúc đẩy phong trào nông dân phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu. Nội dung, phương thức hoạt động phong phú, đa dạng và khá hiệu quả của các cấp Hội trong việc tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng, chính quyền và nâng cao vị thế, uy tín của Hội Nông dân trong hệ thống chính trị và trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, trước yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, hoạt động của Hội còn bộc lộ một số mặt hạn chế: Chưa thật sự bám sát vào chức năng, nhiệm vụ của một tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho giai cấp nông dân, còn có xu hướng thiên về các phong trào bề nổi. Một số nơi, tổ chức Hội chưa thực sự là cầu nối giữa các cấp ủy Đảng, chính quyền với hội viên, nông dân. Trong việc giải quyết các vấn đề bức xúc, vướng mắc, khiếu kiện của nông dân, một số cấp Hội, nhất là cơ sở còn thụ động và lúng túng, chưa có chính kiến với những sai phạm của cán bộ ở địa phương để bảo vệ lợi ích của hội viên, nông dân. Việc thực hiện chức năng giám sát hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức Nhà nước, góp ý cho cấp ủy Đảng, chính quyền còn nhiều hạn chế, nhất là trong những vấn đề nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến quyền lợi của hội viên, nông dân. Vai trò của Hội trong việc tham mưu, đề xuất với Đảng, chính quyền ở nhiều nơi chưa thể hiện rõ, thậm chí có nơi còn né tránh trước những khó khăn, vướng mắc về sản xuất và đời sống của hội viên, nông dân.

Khá nhiều nơi, Hội chưa phát huy tốt quyền làm chủ của nông dân và hội viên trong các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Vì vậy, vai trò của nông dân trong xây dựng và thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ ở cơ sở còn nhiều hạn chế, tính chủ động chưa cao. Hoạt động của một số cấp Hội còn thụ động, chủ yếu là “chấp hành” các mệnh lệnh, chỉ thị của cấp ủy Đảng và chính quyền; thiếu chủ động, sáng tạo, chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nông dân.

Một số phong trào thi đua phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn do Hội phát động chưa đi vào chiều sâu và rộng khắp, có phong trào chưa thu hút được đông đảo nông dân, còn nhiều nông dân “đứng ngoài cuộc”. Hoạt động của Hội chưa chú ý đúng mức đến nông dân vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Việc chăm lo đến lợi ích thiết thực của nông dân chưa được các cấp Hội quan tâm kịp thời, thỏa đáng và chủ động giải quyết những vướng mắc. Nhiều cấp Hội chưa thực hiện tốt nhiệm vụ tư vấn, giúp đỡ nông dân trong các quan hệ làm ăn với các đối tác khác, kể cả đối tác đó là cơ quan nhà nước, dẫn đến người nông dân bị thua thiệt.

Công tác giáo dục chính trị tư tưởng chưa thường xuyên, sâu sắc; nội dung hình thức, phương pháp giáo dục còn dập khuôn, máy móc, chậm được đổi mới, chưa tác động vào tâm tư, tình cảm và nhận thức của nông dân. Ở nhiều nơi còn có biểu hiện coi nhẹ công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng cho hội viên, nông dân. Do đó, nhận thức về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước của nông dân ở một số địa phương còn hạn chế, bất cập. Ở một vài nơi còn xảy ra tình trạng khiếu kiện đông người vượt cấp, kéo dài, có nơi trở thành điểm nóng, nhưng Hội Nông dân thiếu biện pháp cụ thể, thiết thực góp phần cùng chính quyền các cấp giải quyết, gây nên những hậu quả đáng tiếc đối với an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Sự liên kết, phối hợp hoạt động giữa Hội Nông dân cơ sở với các ban, ngành, đoàn thể hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn ở một số địa phương không nhịp nhàng. Cơ chế phối hợp hoạt động của Hội với các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp khác chưa rõ ràng và cụ thể.

Trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, nông nghiệp, nông thôn, nông dân và Hội Nông dân Việt Nam bị tác động, ảnh hưởng rất lớn với cả thuận lợi và khó khăn thách thức. Hiện nay, nông dân các nước trong khu vực và trên thế giới không chỉ là những người lao động đơn thuần trên đồng ruộng sản xuất ra sản phẩm nông nghiệp, mà còn là người chủ trang trại, chủ doanh nghiệp. Hội Nông dân các nước trong khu vực và trên thế giới đứng độc lập với Nhà nước, giám sát hoạt động của Nhà nước, do đó có vị trí rất quan trọng và ảnh hưởng lớn trong đời sống chính trị - xã hội. Vai trò phản biện xã hội của tổ chức hội thể hiện rất rõ nét, trực tiếp tác động, gây ảnh hưởng, thậm chí gây áp lực với Nhà nước để buộc Nhà nước thực hiện đầy đủ những cam kết. Có thể nói, Hội Nông dân các nước trên thế giới là người đồng hành của Nhà nước và cũng thực sự là người bạn đồng hành của nông dân trong cuộc sống và sản xuất. Điều này, đối với nước ta còn phải có sự phấn đấu mạnh mẽ mới đạt được.

II. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI

1. Sự lãnh đạo của Đảng, sự phối hợp của chính quyền đối với Hội trong giai đoạn hiện nay

Quan hệ giữa Đảng với Hội là vấn đề đặc biệt quan trọng trong đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Hội. Trong mối quan hệ ấy, Đảng là người lãnh đạo, định hướng chính trị đối với hoạt động của Hội. Trong những năm qua, Đảng đã có nhiều chủ trương, giải pháp để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội Nông dân. Tuy nhiên, trên thực tế, trong từng lúc, từng nơi, sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, sự phối hợp của chính quyền đối với hoạt động của Hội có điểm chưa thật sự sâu sắc và đầy đủ. Một số nơi cấp ủy Đảng còn chưa thật sự coi trọng lãnh đạo tổ chức Hội, nhất là ở những nơi mà cán bộ chủ chốt của Hội không tham gia cấp ủy. Có nơi còn cử những cán bộ Đảng, chính quyền yếu kém về phẩm chất, năng lực, không đảm đương được công việc, thiếu hiểu biết về Hội làm công tác Hội, làm ảnh hưởng nhất định đến hoạt động của Hội. Nguyên tắc xây dựng tổ chức của Hội là phải vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng vừa tôn trọng tính tự chủ của Hội về mặt tổ chức, nhưng cho đến nay nguyên tắc này vẫn chưa được nhiều cấp ủy cụ thể hóa thành quy chế, quy định.

Quan điểm chỉ đạo xây dựng tổ chức bộ máy và hoạt động của Hội đến nay chưa được thể chế hóa bằng pháp luật. Chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho hội viên, nông dân của Hội chưa được coi trọng đúng mức, nhất là vai trò của Hội trong việc đại diện cho giai cấp nông dân trong hoạt động giám sát và phản biện xã hội. Nội dung giám sát, phản biện và cơ chế thực hiện cũng như quyền và trách nhiệm của Hội khi thực hiện chức năng đó đối với việc thực hiện những chủ trương, chính sách, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước có liên quan đến nông dân, nông nghiệp, nông thôn chưa được làm rõ. Mặt khác, nhiều cấp ủy Đảng, chính quyền chưa thực sự tạo điều kiện cho Hội giám sát đối với tổ chức hoạt động của mình.

Một số cấp ủy Đảng, chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và sâu sắc về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Hội trong tình hình mới, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức Hội phát huy đầy đủ vai trò của mình trong đời sống xã hội.

2. Sự phát triển của khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu hóa kinh tế

Cuộc cách mạng khoa học công nghệ có những bước tiến nhảy vọt, thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, làm biến đổi sâu sắc các lĩnh vực đời sống xã hội. Cuộc cách mạng này cùng với một số xu thế phát triển xã hội trên thế giới tạo ra những thời cơ, thuận lợi mới cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời đặt ra những thách thức to lớn đối với nước ta. Vì vậy, cần phải nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức đi tắt đón đầu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, trước hết là đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Điều đó cũng đòi hỏi phải đổi mới thể chế, đổi mới hệ thống chính trị, trong đó việc đổi mới hoạt động của Hội Nông dân Việt Nam là một nội dung quan trọng. Sự tinh gọn về bộ máy tổ chức, sự đa dạng, phong phú về nội dung, phương thức hoạt động của Hội đang đặt ra ngày càng cấp thiết.

Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế tất yếu của thế giới. Toàn cầu hóa đã và đang làm cho các quan hệ quốc tế, các mối liên kết kinh tế giữa các khu vực, các quốc gia, dân tộc trên thế giới trở nên gần gũi hơn, phát triển theo hướng tích cực, sâu rộng, toàn diện hơn; các nhân tố kinh tế, nhất là kinh tế thị trường ngày càng thâm nhập, thẩm thấu nhiều hơn, sâu hơn vào đời sống kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Đối với Việt Nam, tham gia vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế sẽ đem lại cho chúng ta những cơ hội mới để có thể “đi tắt, đón đầu”, có điều kiện phát triển kinh tế, khoa học và công nghệ, tận dụng những tác động tích cực của quá trình toàn cầu hóa để đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên, việc chúng ta tham gia vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế không thể không bị các thế lực thù địch lợi dụng chống phá với những âm mưu “diễn biến hòa bình” thâm độc. Đồng thời, các thế lực thù địch sẽ lợi dụng cơ hội để truyền bá những quan điểm, tư tưởng sai trái, văn hóa phẩm độc hại, xa lạ với giá trị văn hóa truyền thống của Việt Nam. Một trong những đối tượng mà các thế lực thù địch tập trung là nông dân, vì đây là lực lượng đông đảo nhất trong khối đại đoàn kết dân tộc, nhưng đời sống vật chất và tinh thần còn nhiều khó khăn.

Xu thế đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế đòi hỏi các quan hệ đối ngoại không chỉ được thực hiện theo con đường của Nhà nước mà còn bằng các hình thức đối ngoại nhân dân thông qua các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức phi chính phủ. Vì vậy, Hội Nông dân phải nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của mình trong lĩnh vực đối ngoại của Đảng, Nhà nước để năng động, nhạy bén hơn trong giao lưu đối ngoại với bạn bè quốc tế.

Càng tiến sâu vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thì càng đòi hỏi sự năng động, hoạt động hiệu quả của cả hệ thống chính trị, trong đó có Hội Nông Việt Nam. Trước yêu cầu đó, Hội Nông dân phải lựa chọn giải pháp, bước đi phù hợp để thực sự là nền tảng vững chắc của hệ thống chính trị, là chỗ dựa tin cậy của Đảng, của giai cấp nông dân trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

3. Quá trình thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH hóa đất nước, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế

CNH, HĐH đất nước đòi hỏi chúng ta phải thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nước ta chưa có lực lượng sản xuất phát triển. Trong khi đó, tiềm năng và lực lượng trong nông nghiệp, nông thôn rất lớn, chưa được khai thác và phát huy mạnh mẽ. CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi phải chuyển nền nông nghiệp sang sản xuất hàng hóa với chất lượng sản phẩm ngày càng cao, không chỉ đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong nước mà còn đủ sức cạnh tranh xuất khẩu sang các nước trong khu vực và trên thế giới. Các ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn phải phát triển, năng suất lao động phải được nâng cao v.v… Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không ngừng phát triển đảm bảo cho sự phát triển kinh tế và tăng cường cơ sở hạ tầng nông thôn, đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại. CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn cần phải đổi mới và xây dựng quan hệ sản xuất cho phù hợp; khuyến khích các thành phần kinh tế ở nông thôn phát triển mạnh mẽ theo hướng kinh doanh tổng hợp, từ đơn giản đến phức tạp nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao. Cần xây dựng hệ thống chính trị ở nông thôn vừa đảm bảo phát huy dân chủ, khai thác tiềm năng thế mạnh, đảm bảo sự ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn, phục vụ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.

Hội nhập kinh tế quốc tế đem lại nhiều thời cơ nhưng cũng không ít thách thức cho nông dân Việt Nam. Sản phẩm nông nghiệp đứng trước sự cạnh tranh khốc liệt về giá cả, chất lượng ở cả thị trường trong nước và quốc tế. Nhu cầu thị trường ngày càng đòi hỏi sản phẩm nông nghiệp sạch và cân bằng sinh thái, đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng. Vì vậy, nông sản của Việt Nam muốn xuất khẩu được thì giá thành phải thấp, chất lượng cao và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Do đó, nông nghiệp của Việt Nam phải phát triển theo hướng vừa chuyên môn hóa, đa dạng hóa, áp dụng công nghệ sinh học, công nghệ cao và hệ thống quản lý hiệu quả, vừa đảm bảo chất lượng an toàn thực phẩm và giá thành sản phẩm. Yêu cầu đó đòi hỏi nông dân phải sản xuất hàng hóa lớn, đảm bảo chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế. Hội Nông dân phải có trách nhiệm trong việc tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ nông dân tạo ra sự đột phá trong sản xuất để có sản phẩm nông nghiệp đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới.

Cùng với quá trình CNH, HĐH đất nước, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang khơi dậy các tiềm năng sáng tạo, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Nhưng nền kinh tế thị trường càng phát triển thì sự phân hoá giàu nghèo là khó tránh khỏi và thực tế đang diễn ra khá phức tạp trong đời sống xã hội hiện nay ở nước ta. Đặc biệt sự chênh lệch khoảng cách giàu nghèo ngày càng roãng ra giữa khu vực nông thôn và thành thị, giữa đồng bằng với miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Khoảng cách phân hoá giàu nghèo quá xa là không phù hợp với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó là tình trạng một bộ phận những kẻ làm ăn bất chính, làm giàu phi pháp, tiêu cực, tham nhũng giàu lên nhanh chóng đã tác động tiêu cực đến đời sống xã hội, đến tư tưởng, tình cảm của nông dân. Một bộ phận cán bộ đảng viên thoái hóa về tư tưởng, đạo đức, lối sống và giảm lòng tin của nông dân vào bộ máy quản lý Nhà nước. Khắc phục những mặt trái của cơ chế thị trường đòi hỏi phải có sự tham gia của Nhà nước và toàn xã hội, đặc biệt là Hội Nông dân. Đây là những chức năng xã hội hoàn toàn mới của Hội. Việc bảo vệ người nông dân làm ăn chân chính, hợp pháp, đấu tranh, bài trừ những kẻ làm ăn bất hợp pháp, làm giả, làm nhái các sản phẩm nông nghiệp, gây ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh của nông dân là trách nhiệm của Hội. Hội phải đẩy mạnh chương trình xoá đói, giảm nghèo, hỗ trợ nông dân sản xuất kinh doanh, giám sát chất lượng sản phẩm, chống các hiện tượng gian lận thương mại, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, quảng cáo xuyên tạc và các hành vi kinh doanh phản nhân văn khác…

Thực hiện chức năng này, tổ chức Hội cùng Nhà nước cần hình thành các chuẩn mực sản xuất kinh doanh mới, xây dựng các thể chế kinh tế thị trường, lành mạnh hoá nền kinh tế thị trường…

Cơ cấu xã hội - giai cấp nước ta trong điều kiện mới đã và đang có nhiều biến đổi nhanh chóng. Tính thuần nhất về cơ cấu giai cấp “hai giai, một tầng” [giai cấp công nhân và giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức] như trong thập kỷ 60 - 80 của thế kỷ trước đã được thay thế bởi cơ cấu xã hội - giai cấp, cơ cấu xã hội - nghề nghiệp, cơ cấu xã hội - dân số, cơ cấu xã hội - dân tộc và cơ cấu xã hội - lãnh thổ… mới phức tạp, đa dạng và còn đang tiếp tục biến đổi cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Ngay cả cơ cấu bên trong của giai cấp nông dân cũng đang có sự biến đổi, phân hoá rõ rệt.

Đặc biệt, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường hiện nay, nếu như hội viên, nông dân không thấy lợi ích của mình hoặc lợi ích của họ không được đảm bảo khi tham gia tổ chức Hội, tổ chức Hội không có cách thức vận động hội viên, nông dân, với nhu cầu cuộc sống ngày càng cao và điều kiện kiếm sống thuận lợi, nông dân dễ từ bỏ tổ chức Hội, sẽ dễ dẫn đến tổ chức Hội chỉ còn lại là tổ chức mang tính hình thức. Đặc điểm đó cho thấy, việc đổi mới tổ chức, hoạt động của Hội Nông dân là vấn đề cấp bách. Nhận thức không đúng, xem nhẹ, đơn giản, hoặc nôn nóng trong quá trình đổi mới đều có thể dẫn đến những sai lầm, hậu quả tiêu cực.

4. Tình hình nông nghiệp, nông dân, nông thôn hiện nay

Thực trạng về sản xuất nông nghiệp, nông dân, nông thôn hiện nay cũng là nhân tố tác động sâu sắc đến yêu cầu đổi mới nội dung và phương thức hoạt động Hội Nông dân.

Để thực hiện nhiệm vụ CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là hết sức quan trọng theo hướng gắn công nghiệp với nông nghiệp, đẩy mạnh công nghiệp và dịch vụ nông thôn, chuyển từ sản xuất thuần nông sang đa canh, gắn kết trồng trọt với chăn nuôi, hải sản với công nghiệp chế biến, vừa chú trọng giảm cơ cấu trồng trọt, phát triển mạnh chăn nuôi công nghiệp và nghề rừng… Ngay trong mỗi ngành nông nghiệp cũng cần có sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả, xem thị trường là yêu cầu quan trọng của sản xuất. Sự gắn kết giữa nông nghiệp với phát triển nghề đa dạng để khai thác các tiềm năng thế mạnh là một đòi hỏi thực tế.

Cùng với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi phải chuyển dịch lao động, nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, đảm bảo lao động ở nông thôn thành thạo các công việc của nhà nông, hiểu biết khoa học - kỹ thuật cũng như có tay nghề ở các ngành để làm ra các sản phẩm đáp ứng thị trường, thị hiếu của người tiêu dùng. Hiện nay nông thôn đang dư thừa lao động cần có các chính sách để mọi người đều có việc làm, giảm tối đa sự dư thừa lao động và nâng cao năng suất lao động và tăng thu nhập.

Công nghiệp hoá và đô thị hoá trong thập kỷ tới sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn và nhu cầu sử dụng đất đai tăng lên sẽ làm tăng tỷ lệ hộ nông dân thiếu đất sản xuất. Việc chuyển số lao động ở nông thôn không có đất sang ngành nghề khác là một công việc trước mắt và lâu dài. Số hộ nông dân còn một ít đất sản xuất đòi hỏi phải nâng cao trình độ canh tác trên diện tích đó nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao. Như vậy sự đòi hỏi về các dịch vụ cho nông nghiệp như vốn, giống, cây, con, kỹ thuật và thị trường để họ có điều kiện sản xuất là rất cấp thiết.

Trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, cơ chế chính sách liên quan tới nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Thông qua đó nông dân đã phấn khởi khai thác tiềm năng về đất đai, lao động, vốn để sản xuất, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng gắn với thị trường và nâng cao hiệu quả kinh tế.

Phát triển công nghiệp chế biến các sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp để nâng cao hiệu quả kinh tế là một tất yếu của quá trình sản xuất, làm cho người nông dân gần với sản xuất công nghiệp, với thành thị hơn. Ngoài các chương trình phối hợp với các bộ, ngành nhằm hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất, cần nâng cao nhận thức cho nông dân và tạo ra môi trường để gắn nông nghiệp với công nghiệp và dịch vụ nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Thông qua đó giai cấp nông dân và giai cấp công nhân cùng sát cánh bên nhau, tăng cường củng cố khối liên minh công- nông - trí thức ngày một vững chắc. Đảng, Nhà nước cần có định hướng cho bước phát triển này. Sự gắn kết công nghiệp với nông nghiệp, dịch vụ là cơ sở cho CNH, HĐH đất nước.

Quá trình chuyển dịch nông nghiệp, kinh tế nông thôn sang sản xuất hàng hoá, trở thành một bộ phận của kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải không ngừng nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. Quá trình này chỉ có thể dựa trên tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản trong tiến trình hội nhập.

Theo quan điểm Đại hội X của Đảng, kinh tế nông thôn phải vươn lên trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển hướng hợp quy luật, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải xây dựng hệ thống chính sách phù hợp, thúc đẩy quá trình đó.

Hiện nay, lực lượng lao động nông nghiệp nước ta còn hạn chế về nhiều mặt. Sức ép về việc làm của lao động nông nghiệp, nông thôn đang ngày một lớn, lao động nông thôn vẫn chiếm tuyệt đại đa số về số lượng trong nguồn lực lao động của cả nước, tốc độ tăng dân số tự nhiên ở nông thôn lại là gánh nặng lớn cho Đảng và Nhà nước. Chất lượng nguồn lực lao động nông thôn thấp hơn rất nhiều so với các vùng đô thị; tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo còn cao, phụ thuộc nặng nề vào mùa vụ; Nhiều người chưa có việc làm thường xuyên; ổn định, thu nhập của người lao động ở nông thôn thuộc vào loại thấp nhất so với các lĩnh vực khác của nền kinh tế; mức sống lao động và dân cư nông thôn còn bấp bênh và thấp hơn nhiều so với thành thị. Thị trường lao động nông thôn chưa phát triển, sức cạnh tranh của hàng hoá sức lao động ở nông thôn còn yếu. Đó là những tác động không nhỏ đối với quá trình đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Hội.

III. ĐỔI MỚI NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG

1. Mục tiêu

Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Hội nhằm xây dựng, củng cố tổ chức bộ máy tinh gọn, vững mạnh, hoạt động hiệu quả, thực sự là tổ chức của nông dân - một lực lượng cơ bản, quan trọng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nâng cao chất lượng tổ chức, năng động hóa hoạt động của tổ chức sao cho sát nông dân hơn, nắm chắc tâm tư, nguyện vọng và đại diện cho lợi ích chính đáng của hội viên, nông dân; làm tốt công tác vận động các tầng lớp nông dân thực hiện nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật của Đảng, Nhà nước.

Củng cố hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy dân chủ; thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nông dân.

Thực hiện tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội đối với Đảng, Nhà nước, phục vụ quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy tính chủ động, sáng tạo và đề cao vai trò của Hội Nông dân trong việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.

2. Yêu cầu

2.1. Phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước

Hoạt động của các cấp Hội phải gắn với chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước vừa là tiền đề, vừa là điều kiện quyết định để đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Hội. Trên cơ sở nghiên cứu chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, các cấp Hội đề ra kế hoạch, nội dung hoạt động cho phù hợp với thực tiễn phong trào nông dân ở địa phương vào từng thời điểm cụ thể. Xét cho cùng, mọi nhiệm vụ của Hội, mọi hoạt động của Hội đều nhằm phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Hội chính là góp phần hoàn thành sứ mạng lịch sử mà Đảng, Nhà nước giao cho Hội. Nếu sự đổi mới của Hội không đi đúng với qũy đạo phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thể hiện trong đường lối, chủ trương của Đảng thì tổ chức Hội sẽ mất phương hướng trong hành động. Vì vậy, mọi sự đổi mới của Hội, mọi hoạt động của Hội phải được định hướng và đạt tới việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

2.2. Đáp ứng yêu cầu về quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên, nông dân

Tổ chức Hội là nơi hội viên, nông dân thể hiện, bày tỏ nguyện vọng, mong muốn chính đáng, hợp pháp của mình. Mọi chương trình hành động, mọi phương thức hoạt động của Hội đều phải xuất phát từ lợi ích của hội viên, nông dân. Không quan tâm thích đáng đến lợi ích thì không tạo được động lực phát triển. Đại diện cho quyền lợi của hội viên, nông dân là chức năng chủ yếu của tổ chức Hội. Vì vậy, chăm lo lợi ích của nông dân vừa là mục đích yêu cầu, vừa là động lực của công tác vận động nông dân. Công tác vận động nông dân đòi hỏi phải nắm được tình hình đời sống, tâm tư, nguyện vọng của nông dân để có chủ trương giải quyết kịp thời các yêu cầu, nguyện vọng của họ.

Chăm lo lợi ích của nông dân tức là Hội phải hướng vào các hoạt động cải thiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho hội viên, nông dân. Phải khuyến khích, giúp đỡ nông dân phát triển kinh tế, làm giàu chính đáng, đẩy mạnh chương trình xóa đói giảm nghèo, giải quyết tốt các vấn đề bức xúc của nông dân trong sản xuất và đời sống. Đồng thời, phải quan tâm đến vấn đề ăn, ở, vệ sinh môi trường, dân số kế hoạch hóa gia đình để giảm mức tăng dân số, xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Muốn cải thiện đời sống nông dân, cần đẩy mạnh công tác khuyến nông, phổ cập kiến thức khoa học - công nghệ cho nông dân để bồi dưỡng nông dân thành người lao động có kiến thức, có văn hóa, khoa học kỹ thuật, tăng thêm khả năng sáng tạo giải quyết các vấn đề đặt ra trong sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội.

Song song với việc chăm lo đời sống vật chất, cần phải chăm lo cả đời sống văn hóa tinh thần cho hội viên, nông dân. Văn hóa có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách, làm phong phú đời sống tinh thần con người. Phát triển và tăng cường mạng lưới văn hóa, thông tin, tuyên truyền ở cơ sở để nâng cao mức hiểu biết, hưởng thụ, sáng tạo văn hóa của nông dân ở mọi miền đất nước.

3. Những vấn đề cần giải quyết để đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Hội

Muốn đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Hội, trước hết cần có tư duy mới về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Hội Nông dân, phù hợp với sự biến đổi của cơ cấu xã hội nông dân và sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn nước ta trong thời kỳ mới. Chức năng của Hội Nông dân Việt Nam là vận động, giáo dục hội viên, nông dân phát huy quyền làm chủ, tích cực học tập nâng cao trình độ, năng lực về mọi mặt cho hội viên nông dân; đại diện giai cấp nông dân tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên, nông dân. Đối với phong trào nông dân và xây dựng nông thôn mới, Hội là trung tâm và nòng cốt; đối với giai cấp nông dân, Hội là người đại diện bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của nông dân, giáo dục, vận động, tổ chức nông dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới, dẫn đến những biến đổi sâu sắc về cơ cấu xã hội - giai cấp; trong điều kiện xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân đòi hỏi phải chú ý đến các tổ chức chính trị - xã hội, trong đó có Hội Nông dân và phải có tư duy mới về tính chất, chức năng, nhiệm vụ của Hội trong điều kiện mới, thể hiện:

Một là, Hội là đại diện lợi ích của giai cấp nông dân, phản ánh trung thực tâm tư, nguyện vọng và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên, nông dân.

Hai là, tập hợp đông đảo lực lượng nông dân tham gia tổ chức Hội, vận động họ tham gia các phong trào hành động cách mạng, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ của Hội.

Ba là, trên vị thế là người đại diện cho lợi ích của giai cấp nông dân, Hội Nông dân giám sát chặt chẽ hoạt động của các cơ quan Nhà nước, giám sát hành vi của đội ngũ cán bộ, công chức và của đảng viên.

Bốn là, tham gia quản lý Nhà nước với tư cách là người phản biện xã hội đối với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, kế hoạch, biện pháp điều hành hoạt động của Nhà nước trên cả ba phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp; đồng thời tham gia thực hiện các chương trình, kế hoạch của Nhà nước theo chương trình phối hợp giữa các bên.

Năm là, giáo dục, giác ngộ quần chúng nhân dân, xây dựng lực lượng cốt cán chính trị - xã hội, tích cực bồi dưỡng, giới thiệu cho Đảng những quần chúng ưu tú, xuất sắc.

Các chức năng, nhiệm vụ có quan hệ mật thiết, tác động lẫn nhau. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ đó, Hội xây dựng tổ chức và phương thức hoạt động phù hợp, thực sự trở thành tổ chức có vị thế độc lập tương đối trong hệ thống chính trị, có thực lực và sức mạnh trong xã hội và tự nó sẽ sàng lọc một đội ngũ cán bộ thích ứng, có đủ phẩm chất, năng lực thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của tổ chức.

Trong điều kiện mới, cần nhấn mạnh và phát triển quan điểm: Hội là tổ chức tự nguyện của nông dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và bảo vệ lợi ích của các tầng lớp nông dân trong mối quan hệ với Đảng, Nhà nước.

Trong mối quan hệ với Đảng, Nhà nước, tổ chức Hội là tổ chức độc lập tương đối, không phụ thuộc hoàn toàn vào nhà nước về tổ chức, biên chế và tài chính. Do vậy, cần có cơ chế, chính sách để tổ chức Hội giữ được vị thế đó, đặc biệt là chính sách về nhân sự và tài chính. Tổ chức Hội phải được tự chủ về tài chính với kinh phí hoạt động được cung cấp thông qua Qũy hỗ trợ tài chính từ ngân sách Nhà nước và các nguồn hỗ trợ khác.

3.1. Đổi mới về nội dung

Xác định nội dung hoạt động của Hội trên 3 mặt công tác cơ bản: Công tác chính trị - tư tưởng [công tác tuyên truyền giáo dục], công tác xây dựng tổ chức và tổ chức các phong trào hành động cách mạng.

3.1.1. Đổi mới về tổ chức - cán bộ

Đổi mới tổ chức - cán bộ phải theo hướng tinh gọn, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, khắc phục tình trạng hành chính hóa. Đặc biệt, chú trọng củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của cơ sở Hội, bảo đảm thực hiện tốt chức năng là tổ chức chính trị - xã hội, đồng thời là tổ chức bảo vệ quyền lợi, tham gia tư vấn, giúp đỡ, hướng dẫn, bảo trợ cho nông dân phát triển sản xuất - kinh doanh, xóa đói, giảm nghèo, làm giàu chính đáng, góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn.

Hình thức tổ chức bộ máy của Hội Nông dân Việt Nam phải linh hoạt và đa dạng, thích hợp với đặc điểm của từng vùng, miền, nhất là đối với vùng dân tộc thiểu số. Thu gọn các “tổ chức cứng”, mở rộng các loại hình tập hợp linh hoạt như: nhóm, câu lạc bộ. Kiện toàn, củng cố tổ chức Hội hướng mạnh về cơ sở, xây dựng cơ sở Hội vững mạnh, thu hẹp số lượng tổ chức Hội yếu kém, khắc phục tình trạng “trắng” về tổ chức ở cơ sở. Các chi hội được tổ chức linh hoạt theo nhu cầu nghề nghiệp và đơn vị kinh tế, theo địa bàn dân cư ở thôn, ấp, bản.

Đổi mới toàn diện công tác cán bộ, từ khâu lựa chọn, bồi dưỡng, đào tạo, bố trí sử dụng đến chính sách đối với cán bộ; tạo điều kiện để hội viên lựa chọn người đứng đầu thực sự là thủ lĩnh của họ.

Đội ngũ cán bộ hoạt động trong tổ chức Hội phải thực sự trở thành các nhà hoạt động chính trị - xã hội, gắn bó với nông dân và các phong trào của Hội, do đó phải khác với công chức Nhà nước. Phân biệt đội ngũ cán bộ Hội với công chức Nhà nước để xây dựng tiêu chuẩn, chức danh và cơ chế, chính sách quản lý và đãi ngộ hợp lý.

Để đáp ứng tình hình mới, đội ngũ cán bộ Hội cần được xây dựng theo hướng chuyên môn hóa. Không chỉ cán bộ chuyên trách cần được chú trọng nâng cao chất lượng mà còn phải quan tâm bồi dưỡng nâng cao chất lượng những cán bộ không chuyên, cán bộ kiêm nhiệm ở các cấp, nhất là cấp cơ sở cả về chính trị, văn hóa, quản lý kinh tế, khoa học - kỹ thuật. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Hội từ Trung ương đến cơ sở phải được đổi mới để họ có thể thực hiện tốt phương thức kết hợp vận động, tập hợp và tư vấn, giúp đỡ hội viên, nông dân trong hoạt động. Cần đưa vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng những nội dung thiết thực đối với công tác vận động nông dân trong điều kiện mới. Trong đó, đặc biệt chú ý trang bị cho đội ngũ cán bộ Hội những kiến thức về dân chủ, thực hành dân chủ; những kỹ năng về tổ chức và hoạt động xã hội, kỹ năng, phương pháp vận động, tập hợp nông dân và các kiến thức cơ bản về quản lý kinh tế nông nghiệp.

Hiện nay, tổ chức Hội ở cấp Trung ương cần nghiên cứu thành lập các Hội đồng tư vấn về chính sách, pháp luật; về tiến bộ khoa học, kỹ thuật; về xây dựng đời sống nông thôn mới…

3.1.2. Tuyên truyền, giáo dục, vận động, tập hợp nông dân

Toàn bộ hoạt động của Hội là nhằm đoàn kết, tập hợp đông đảo các tầng lớp nông dân tham gia tổ chức Hội, phát huy dân chủ và thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng. Sự lớn mạnh, trưởng thành của tổ chức Hội thể hiện một phần ở số lượng hội viên tham gia tổ chức Hội ít hay nhiều. Số lượng hội viên càng đông, chiếm tỷ lệ lớn so với số lượng nông dân trên địa bàn nông thôn thì tổ chức Hội càng mạnh. Muốn tập hợp đông đảo nông dân vào Hội, phải đẩy mạnh công tác tuyên tuyền, vận động, biến việc tham gia tổ chức Hội trở thành nhu cầu không thể thiếu được của nông dân. Điều đó, đòi hỏi công tác tuyên truyền, vận động phải được đổi mới về nội dung, hình thức và phương pháp. Nội dung tuyên truyền phải thiết thực, đáp ứng nhu cầu về thông tin trên các lĩnh vực của đời sống nông nghiệp, nông thôn cho nông dân. Đồng thời, hoạt động của tổ chức Hội phải hướng vào thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng trong từng giai đoạn cụ thể. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình khó khăn, lâu dài và liên tục. Trong mỗi giai đoạn khác nhau có yêu cầu, nhiệm vụ khác nhau, đòi hỏi việc tuyên truyền, giáo dục, vận động, tập hợp nông dân cũng khác nhau.

Công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động, tập hợp nông dân phải phù hợp với trình độ dân trí và chế độ chính trị cũng như truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc. Trong điều kiện mới, với sự phức tạp, đa dạng về cơ cấu xã hội và về lợi ích, việc tuyên truyền, vận động, tập hợp nông dân không chỉ đặt ra với tầm cao mới, mà cần có nội dung, hình thức, biện pháp tuyên truyền, vận động phù hợp. Cần đề ra chương trình phối hợp hành động chung của Hội Nông dân với việc tuyên truyền, giáo dục của các đoàn thể khác, nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục truyền thống yêu nước, trách nhiệm công dân, đạo đức xã hội, đạo đức nghề nghiệp; ý thức đoàn kết cộng đồng, chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc và sự đồng thuận xã hội; ra sức đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, lao động sáng tạo, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, làm cho kinh tế nông nghiệp, nông thôn không ngừng phát triển, xã hội lành mạnh và ổn định, đời sống vật chất, tinh thần của hội viên, nông dân ngày một cải thiện.

3.1.3. Tổ chức các phong trào hành động cách mạng

Phong trào hành động cách mạng của Hội có vai trò quan trọng góp phần giáo dục, rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt; mang lại lợi ích thiết thực cho hội viên, nông dân.

Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế với những điều kiện mới của nền kinh tế thị trường, đã và đang đặt ra những đòi hỏi mới đối với sự phát triển của nông nghiệp, nông dân và nông thôn, đồng thời nhu cầu của hội viên, nông dân cũng ngày càng phát triển cao, phong phú, đa dạng hơn, trình độ nhận thức mọi mặt của họ có sự thay đổi đáng kể. Thực tế trên đặt ra yêu cầu các cấp Hội phải đổi mới nội dung và phương thức thực hiện các phong trào hành động cách mạng.

- Đổi mới phương pháp tổ chức, chỉ đạo thực hiện phong trào của Ban Chấp hành Hội Nông dân các cấp.

- Đổi mới hình thức, biện pháp thực hiện phong trào.

3.1.4. Tăng cường hoạt động đối ngoại

Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, trên cơ sở các chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước, Hội cần tích cực tăng cường mối quan hệ với các tổ chức nông dân của các nước trong khu vực, trên thế giới, các tổ chức quốc tế, các tổ chức chính phủ, phi chính phủ, các quan hệ hợp tác song phương và đa phương nhằm tranh thủ sự ủng hộ của các bạn bè quốc tế, khai thác các chương trình dự án để hỗ trợ các hoạt động của Hội. Đồng thời, thông qua hoạt động đối ngoại để học hỏi, tiếp thu khoa học - công nghệ tiên tiến, ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp. Tại các địa bàn biên giới, các cấp Hội cần tổ chức cho nông dân học tập quy chế biên giới, vận động hội viên, nông dân tích cực tham gia bảo vệ an ninh biên giới, có ý thức cảnh giác, phản ánh kịp thời những hành vi ảnh hưởng xấu đến an ninh biên giới, góp phần tích cực bảo vệ Tổ quốc.

3.2. Đổi mới phương thức hoạt động

Trong giai đoạn hiện nay, giai cấp nông dân Việt Nam đã và đang có sự phân tầng. Cơ cấu xã hội của giai cấp nông dân ngày càng đa dạng, phong phú. Tính chất đa dạng, phong phú đó đặt ra yêu cầu mới, đòi hỏi Hội Nông dân Việt Nam phải đổi mới phương thức hoạt động, tập trung vào những điểm chủ yếu sau đây:

3.2.1. Đổi mới phương thức chỉ đạo của Ban chấp hành các cấp

Ban chấp hành các cấp là cơ quan lãnh đạo cao nhất của mỗi cấp Hội giữa hai kỳ Đại hội. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Ban chấp hành các cấp nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Ban chấp hành và phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của các cấp Hội trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Ban chấp hành lãnh đạo bằng sự gương mẫu của mỗi ủy viên Ban chấp hành, thông qua nguyên tắc lãnh đạo tập trung dân chủ, vận động, thuyết phục, không quan liêu, mệnh lệnh, áp đặt.

Hiệu quả hoạt động của mỗi cấp Hội phụ thuộc rất lớn vào sự lãnh đạo, định hướng của Ban chấp hành cùng cấp và Ban chấp hành cấp trên. Trong giai đoạn hiện nay, Ban chấp hành các cấp phải nâng cao chất lượng việc định hướng đối với hoạt động của các cấp Hội về chính trị, tư tưởng, nội dung và phương thức tổ chức hoạt động, đặc biệt Ban chấp hành Trung ương Hội. Mọi chủ trương, Nghị quyết của Ban chấp hành cấp trên phải được Ban chấp hành cấp dưới quán triệt và thực hiện nghiêm túc. Trong quá trình thực hiện, nếu có vấn đề gì vướng mắc hoặc không phù hợp, Ban chấp hành cấp dưới phải kịp thời kiến nghị, đề xuất để mọi chủ trương, Nghị quyết của Ban chấp hành cấp trên ngày càng hoàn thiện, sát với thực tiễn hơn.

Mọi hoạt động của Hội phải được chỉ đạo dọc nhịp nhàng, đảm bảo thông suốt từ Trung ương đến cơ sở thông qua sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban chấp hành cấp trên đối với Ban chấp hành cấp dưới. Ban chấp hành Trung ương Hội định hướng chủ trương, từ đó chỉ đạo Ban chấp hành các cấp tổ chức, thực hiện nhưng phải thực sự chủ động trong công tác, khắc phục tình trạng trên yêu cầu việc gì dưới chỉ làm việc đó. Trung ương nhận thông tin phản hồi, giám sát việc thực hiện của Hội cấp dưới, nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm, khát quát rút ra bài học rồi tiếp tục có định hướng mới chỉ đạo cấp dưới.

Cấp cơ sở cần nghiên cứu kỹ định hướng chỉ đạo của Trung ương, trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, nhu cầu của nông dân mà đề ra kế hoạch hoạt động phù hợp với thực tiễn phong trào nông dân tại địa phương, sau đó báo cáo lên Hội cấp trên cách làm, hiệu quả và bài học kinh nghiệm.

3.2.2. Tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh; thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ ở cơ sở.

Tham gia xây dựng Đảng, chính quyền là một nội dung rất quan trọng trong quá trình đổi mới hoạt động của Hội Nông dân Việt Nam hiện nay. Thực tiễn cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh cho thấy nếu không có sự tham gia của nhân dân thì không thể đạt được kết quả mong muốn, thậm chí không khắc phục được suy thoái, tham nhũng, làm giảm lòng tin của nông dân với Đảng, Nhà nước và chế độ.

Hội Nông dân Việt Nam cần đi sâu, đi sát các tầng lớp nông dân, khơi dậy ý thức làm chủ của từng hội viên, nông dân, tập hợp ý kiến, tâm tư, nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của hội viên, nông dân để phản ánh với Đảng, Nhà nước, góp phần xây dựng, hoàn thiện chủ trương, chính sách, pháp luật. Cử đại diện của Hội tham gia các ủy ban, hội đồng, ban điều hành một số dự án, chương trình kinh tế - xã hội có liên quan trực tiếp đến quyền lợi và trách nhiệm của nông dân. Hội cần dựa vào ý kiến của hội viên, nông dân để thực hiện vai trò giám sát đối với hoạt động của Đảng, Nhà nước, hoạt động và lối sống của đại biểu dân cử và cán bộ công chức Nhà nước.

Việc tập hợp ý kiến, tâm tư nguyện vọng của nông dân cần đổi mới theo hướng lắng nghe trực tiếp ý kiến của mọi tầng lớp nông dân thông qua đối thoại trực tiếp và các hình thức diễn đàn, tiếp xúc có tổ chức, lắng nghe những ý kiến khác nhau, kể cả ý kiến bất đồng. Điều quan trọng là Hội phải phản ánh trung thực, khách quan và đầy đủ với Đảng, Nhà nước tất cả ý kiến của nông dân, kể cả những thông tin trái chiều. Đó là những hoạt động thiết thực để tổ chức Hội góp phần làm trong sạch Đảng, Nhà nước, chống tham nhũng, quan liêu và các tiêu cực xã hội khác. Đây là yêu cầu và nguyện vọng của nông dân gửi gắm vào tổ chức Hội. Nông dân tín nhiệm tổ chức của mình hay không một phần phụ thuộc vào Hội có phản ánh trung thành, thẳng thắn tiếng nói của họ với Đảng, Nhà nước hay không.

Cuộc vận động xây dựng và thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ ở nông thôn là nhằm đảm bảo quyền dân chủ và làm chủ của nông dân, làm cho người nông dân và các hộ nông dân có điều kiện và năng lực thực tế tham gia trực tiếp vào hoạt động quản lý kinh tế - xã hội ở nông thôn, củng cố và xây dựng thể chế chính trị dân chủ thực sự là của dân, do dân và vì dân.

Hội Nông dân là chủ thể đại diện cho ý chí, lợi ích và quyền lợi của giai cấp nông dân, là những chủ thể tiếp nhận từ nông dân sự uỷ quyền đó và để thực hiện đúng đắn trách nhiệm và nghĩa vụ của sự ủy quyền của nông dân thì các cấp Hội phải triển khai tốt việc thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ ở cơ sở. Phát huy dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện trong giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ ở cơ sở, thực hiện các chủ trương, chính sách, các chương trình, dự án tại địa phương, thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, để góp phần nâng cao vị thế của Hội trong hệ thống chính trị và trong đời sống xã hội.

3.2.3. Tăng cường sự phối hợp với các cấp, các ngành, đoàn thể

Công tác vận động nông dân là nhiệm vụ cơ bản của các cấp Hội, được Đảng giao phó và là trách nhiệm của các cấp Hội. Việc bảo vệ quyền và lợi ích của hội viên, nông dân liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành. Vì vậy, Hội phải phối hợp chặt chẽ với chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể liên quan để xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện các hoạt động nhằm giáo dục, chăm lo, đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của nông dân.

Hội Nông dân cùng với các đoàn thể khác cần xây dựng các chương trình hành động theo chức năng, nhiệm vụ của từng đoàn thể ở nông thôn thành kế hoạch phối hợp hành động thống nhất, khắc phục tình trạng có việc thì chồng chéo, đoàn thể nào cũng làm, có việc thì không biết do đoàn thể nào làm. Đồng thời, thông qua phối hợp với các cấp, các ngành và với các đoàn thể để hỗ trợ, tạo điều kiện cho nhau, cùng nhau thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng.

Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Hội Nông dân trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, trước hết là đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn phải xuất phát từ quan điểm của Đảng: Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân. Động lực thúc đẩy phong trào nông dân phát triển là đáp ứng lợi ích thiết thân của nông dân và kết hợp hài hòa với lợi ích, thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ công dân. Chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên cơ sở liên minh công - nông - trí. Các hình thức tập hợp, vận động nông dân phải đa dạng, linh hoạt, phong phú, đáp ứng yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng mới./.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề