Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do Mác và ăngghen thực hiện là trắc nghiệm

Triết học C.Mác và Ăngghen

+ Về điều kiện kinh tế - xã hội: Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong điều kiện cách mạng công nghiệp chủ nghĩa tư bản phát triển ở Tây Âu nhất là Anh, một phần là Đức. Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử với tính cách một lực lượng chính trị- xã hội độc lập. Thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản là cơ sở chủ yếu cho sự ra đời triết học Mác

+ Tiền đề lý luận: Học thuyết Mác ra đời trên cơ sở kế thừa toàn bộ những tư tưởng trong lịch sử nhân loại, nhưng cơ bản nhất, trực tiếp nhất đó là: Triết học cổ điển Đức, đặc biệt với hai nhà triết học tiêu biểu là Hê-ghen và Phoiơbắc, là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác.

+ Tiền đề về khoa học tự nhiên: Các phát minh lớn của thời kỳ này là: Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của Mayer. Thuyết tế bào của SvanSlayden. Học thuyết tiến hóa của Darwin. Chính các thành tựu khoa học đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những dạng tồn tại khác nhau, các hình thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển của nó. 

Sự ra đời của triết học Mác không những là một tất yếu lịch sử mà còn tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng triết học của nhân loại.



2. Thực chất cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện.

a] Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng:

Trong lịch sử triết học trước Mác, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng tách rời nhau. Các nhà triết học duy vật dù đã thể hiện những tư tưởng biện chứng, nhưng họ vẫn bị sự chi phối của phương pháp tư duy siêu hình. Tư tưởng biện chứng đã đạt được những thành tựu lớn lao trong triết học cổ điển Đức, đặc biệt là trong triết học Heghen, nhưng nó lại phát triển trong hệ thống triết học duy tâm, thần bí.

Triết học Mác ra đời đã thống nhất thế giới quan duy vật với phương pháp luận biện chứng. Kế thừa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong triết học cổ điển Đức, Mác đã xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng. Với tính cách là khoa học về sự phát triển của thế giới tự nhiên, lịch sử xã hội loài người và tư duy. Chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong triết học của Mác và Ăng ghen là cơ sở để hình thành nên hệ thống triết học vĩ đại nhất trong lịch sử.

b] Phát minh ra chủ nghĩa duy vật lịch sử: là biểu hiện vĩ đại nhất cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện

Chủ nghĩa duy vật trước Mác đã đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của xã hội, của khoa học và triết học. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật trước Mác là chủ nghĩa duy vật chưa triệt để, nghĩa là mới duy vật trong giải thích tự nhiên, nhưng còn duy tâm trong giải thích lĩnh vực lịch sử, xã hội, tinh thần.

Triết học của Mác đã giải thích không chỉ thế giới tự nhiên mà cả lĩnh vực lịch sử, xã hội, tư tưởng. Do vậy, lần đầu tiên trong lịch sử triết học của nhân loại, với quan điểm duy vật lịch sử, triết học Mác đã chấm dứt toàn bộ cái nhìn duy tâm, phiến diện về xã hội. Xã hội, lịch sử, tư tưởng lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã được giải thích một cách khách quan, khoa học. Chính vì vậy, Lênin đã khẳng định, chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu khoa học vĩ đại nhất của khoa học, cũng vì vậy, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng là biểu hiện vĩ đại nhất trong lịch sử triết học do Mác và Ăngghen thực hiện.

c] Thống nhất giữa lý luận và thực tiển:

Triết học trước Mác nhìn chung chỉ mới giải thích thế giới mà chưa đề ra được con đường, biện pháp đúng đắn để cải tạo thế giới. Cũng có các đại biểu triết học muốn cải tạo thế giới nhưng lại muốn nhờ vào các lực lượng siêu nhiên, thần bí, hoặc ý thức, tinh thần. Chưa một đại biểu nào hiểu được vai trò của thực tiễn đối với hoạt động cải tạo thế giới.

Triết học Mác không chỉ giải thích thế giới mà quan trọng hơn là còn đề ra con đường, biện pháp, cách thức để cải tạo thế giới. Đặc biệt, triết học Mác chỉ ra rằng con người muốn cải tạo thế giới phải bằng và thông qua hoạt động thực tiễn. Có thể nói lần đầu tiên trong lịch sử triết học, triết học Mác đã gắn bó mật thiết với hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của con người; còn hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của con người là cơ sở, động lực, mục đích của triết học Mác.

d] Thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng:

Bản chất khoa học của triết học Mác đã bao hàm tính cách mạng. Tính khoa học càng sâu sắc, càng phản ánh đúng quy luật của sự phát triển thế giới thì tính cách mạng càng cao, càng triệt để

Triết học Mác biểu hiện tính cách mạng ở trong bản chất khoa học của học thuyết, trong mục đích cải tạo thế giới, trong vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản. Triết học Mác đã chứng minh, bằng sức mạnh của phương pháp biện chứng, sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chế độ xã hội chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử. Triết học Mác là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản, còn giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của triết học Mác trong cuộc đấu tranh vì xã hội tương lai.

e] Xác định đúng đắn mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể:

Triết học trước Mác coi “triết học là  khoa học của mọi khoa học” triết học Mác ra đời đã chấm dứt quan điểm đó, đồng thời, xác định đúng đối tượng của triết học là nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Vì vậy, không những không tách rời, mà trái lại, triết học Mác càng có mối liên hệ thống nhất và độc lập với các khoa học chuyên ngành. Sự phát triển của các lĩnh vực khoa học khác nhau trong việc nghiên cứu thế giới tự nhiên và xã hội đặt cơ sở cho những khái quát mang tính phổ biến của triết học.

Sự phát triển của khoa học hiện đại ngày nay càng minh chứng cho mối liên hệ thống nhất giữa khoa học với triết học Mác trên con đường nhận thức và cải tạo thế giới.

       3. Ý nghĩa của cuộc cách mạng trong Triết học do Mác và Ăngghen thực hiện.

-  Với cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện đã làm cho triết học thay đổi vị trí, vai trò, chức năng trong mối quan hệ với thực tiễn cải tạo thế giới của con người, cũng như trong mối quan hệ với các khoa học cụ thể khác. Triết học Mác đã trở thành thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, đã tạo nên bước chuyển biến về chất của phong trào từ trình độ tự phát lên tự giác.

-  Thay đổi căn bản đối tượng của triết học và mối quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ  thể.

-  Nhờ sự khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội mà triết học Mác lại trở thành thế giới quan, phương pháp luận chung, cần thiết cho sự phát triển tiếp tục của các khoa học

-  Triết học Mác là cơ sở lý luận khoa học cho chiến lược và sách lược cách mạng của giai cấp vô sản, là vũ khí tư tưởng để đấu tranh chống lại hệ tư tưởng tư sản, chủ nghĩa xét lại, cơ hội, giáo điều...

Như vậy, có thể thấy, lịch sử triết học Mác đã chứng minh toàn bộ quan điểm của Mác và Ăngghen là kết quả nghiên cứu trung thực của nhiều năm; tính chân lý và cách mạng của nó không có gì đáng nghi ngờ. Triết học Mác, ngay từ khi mới ra đời, đã biểu hiện ra không phải là những điều cứng nhắc, mà là kim chỉ nam cho hành động. Đó là một học thuyết sinh động, luôn luôn phát triển một cách sáng tạo trong mối liên hệ hữu cơ với thực tiễn và các khoa học khác.


Những cống hiến vĩ đại của C.Mác trong lĩnh vực triết học

[ĐCSVN] - Kỷ niệm 203 năm ngày sinh C.Mác [05/5/1818 - 05/5/2021] là dịp để chúng ta cùng nhìn lại những cống hiến của ông cho nhân loại trên nhiều lĩnh vực. Trong đó, trước hết phải kể đến những cống hiến vĩ đại của ông trong lĩnh vực triết học.

C.Mác[1818 - 1883] - lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới. [Ảnh tư liệu]

Triết học Mác là một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác, là hạt nhân thế giới quan, phương pháp luận của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, là công cụ nhận thức vĩ đại để giai cấp công nhân nhận thức và cải tạo thế giới, xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công; giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, xây dựng chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn đó là xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa. Những cống hiến vĩ đại của C.Mác trong lĩnh vực triết học đó là tạo nên sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phép biện chứng; sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử; làm cho triết học trở thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng để giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động trên toàn thế giới.

Một là, C.Mác đã tạo nên sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phép biện chứng, cho ra đời chủ nghĩa duy vật biện chứng

Trong lịch sử triết học duy vật trước C.Mác đã chứa đựng không ít những hạt nhân hợp lý. Nhưng do sự hạn chế của điều kiện lịch sử xã hội, trình độ phát triển của khoa học cho nên tính siêu hình, duy vật về tự nhiên, duy tâm về xã hội là nhược điểm lớn nhất của chủ nghĩa duy vật trước C.Mác. Trong khi đó, phép biện chứng lại bị nhốt trong cái vỏ duy tâm thần bí của triết học cổ điển Đức, đặc biệt là hệ thống triết học duy tâm, bảo thủ, phản động của G.V.Ph.Hêghen. Để xây dựng một thế giới quan, phương pháp luận triết học thực sự khoa học và cách mạng, đem lại cho loài người một công cụ nhận thức vĩ đại, C.Mác đã tiến hành cải tạo chủ nghĩa duy vật L.Phoiơbắc, phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Công lao của C.Mác trong cải tạo chủ nghĩa duy vật đã được V.I.Lênin đã khẳng định: “Trong khi nghiên cứu sâu và phát triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người” [1].

Phép biện chứng là một cống hiến vĩ đại, không thể phủ nhận của C.Mác. C.Mác đã chủ định nghiên cứu phép biện chứng từ rất sớm. Trong khi thừa nhận những hạt nhân hợp lý, C.Mác đã chỉ ra thế giới quan duy tâm, lộn ngược, tính chất bảo thủ, phản động, bất lực trước những vấn đề xã hội và lịch sử trong phép biện chứng của G.V.Ph.Hêghen. C.Mác đã đặt ra yêu cầu phải sử dụng phép biện chứng duy vật để phân tích các vấn đề xã hội và lịch sử. Theo đó, phép biện chứng duy vật của C.Mác khác hẳn về chất so với phép biện chứng duy tâm của G.V.Ph.Hêghen. Đúng như C.Mác đã khẳng định: “Phương pháp biện chứng của tôi không những khác phương pháp của Hê-ghen về cơ bản, mà còn đối lập hẳn với phương pháp ấy nữa.”[2]. Tạo ra sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng là cống hiến vĩ đại của C.Mác mà trong lịch sử triết học chưa từng có. C.Mác đã đem lại cho loài người tiến bộ vũ khí lý luận sắc bén, công cụ nhận thức vĩ đại.

Hai là, C.Mác đã sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử

Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong hai phát minh vĩ đại nhất của C.Mác. C.Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng vĩ đại trong lĩnh vực triết học, chấm dứt sự hỗn loạn trong phương pháp tiếp cận và những giải thích sai lầm về các hiện tượng lịch sử và xã hội của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo. Vượt lên trên các trường phái, học thuyết triết học trong lịch sử, C.Mác chủ trương không chỉ giải thích thế giới mà còn cải tạo thế giới với khẳng định: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”[3]. Tất yếu phải vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng vào nghiên cứu lịch sử, xã hội.

Khởi đầu của quan niệm duy vật lịch sử, C.Mác cho rằng, tiền đề đầu tiên là con người sống và hoạt động, các điều kiện vật chất đảm bảo cho họ tồn tại và phát triển. Toàn bộ lịch sử xã hội loài người bắt đầu từ sản xuất vật chất. Sản xuất vật chất phân biệt con người với con vật. Sản xuất vật chất là cơ sở quyết định sự tồn tại, phát triển của xã hội loài người. Theo đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã giải quyết đúng đắn các mối quan hệ trong lĩnh vực xã hội: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội; chỉ ra quy luật vận động, phát triển và thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, quy luật về đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp đối kháng, quy luật về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử.... Những nội dung của chủ nghĩa duy vật lịch sử là thế giới quan, phương pháp luận cách mạng và khoa học để giai cấp công nhân nhận thức rõ sứ mệnh lịch sử, xác định được mục tiêu, phương pháp, lực lượng tiến hành cách mạng.

Ba là, C.Mác đã làm cho triết học trở thành vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân và nhân dân lao động

Những cống hiến của C.Mác trong lĩnh vực triết học không phải do mục đích tự thân, chủ quan của C.Mác mà nhằm giải quyết những nhiệm vụ thực tiễn của nhân loại. C.Mác đã sớm khẳng định: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”[4]. Sức mạnh “cải tạo thế giới” của triết học Mác chính là ở sự gắn bó mật thiết với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản, giai cấp vô sản trở thành vũ khí vật chất của triết học Mác. Trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giai cấp vô sản đã tìm thấy công cụ nhận thức vĩ đại, vũ khí tinh thần của mình là triết học Mác. Sự kết hợp triết học Mác với phong trào công nhân đã tạo nên bước chuyển biến về chất của phong trào từ trình độ tự phát lên tự giác. C.Mác đã làm cho triết học của các ông trở thành thế giới quan, phương pháp luận cách mạng và khoa học để giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới.

Những cống hiến vĩ đại của C.Mác trong lĩnh vực triết học đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị. Thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật của triết học Mác là những giá trị vĩnh hằng trong sự vận động, phát triển không ngừng của thực tiễn. Bản chất cách mạng và khoa học của triết học Mác ngày càng được chứng minh bởi sự phát triển của thế giới vật chất, xã hội loài người, đặc biệt là những thành tựu của khoa học. Những người cộng sản phải bảo vệ cho được những giá trị vĩnh hằng của triết học Mác bằng cách nhận thức và vận dụng đúng đắn, sáng tạo, đồng thời thường xuyên bổ sung và phát triển bằng những luận cứ, luận chứng khoa học.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. V.I.Lênin: Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội 2005, tr. 53.

[2]. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1993, tập 23, tr. 35.

[3]. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1995, tập 3, tr. 12.

[4]. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội 2002, tr. 589.

Trung tá, TS Phạm Công Thưởng
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

Video liên quan

Chủ Đề