So sánh nhân vật chí phèo và tràng

  • Cảm nhận về cảnh ngộ và số phận người nông dân qua bữa cháo cám trong truyện ngắn “Vợ nhặt” [Kim Lân]
  • Cảm nhận về cảnh ngộ và số phận người nông dân qua chi tiết Chí Phèo đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện [Chí Phèo – Nam Cao].
  • Nhận xét cái nhìn của các nhà văn về cuộc sống và con người:

Cảm nhận của anh/chị về cảnh ngộ và số phận người nông dân trước Cách mạng tháng Tám qua tâm trạng của các nhân vật trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. Từ đó liên hệ với nhân vật Chí Phèo trong cảnh đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện [Chí Phèo, Nam Cao, Ngữ văn 11, Tập một, NXB Giáo dục, 2016, tr.154] để nhận xét cái nhìn của các nhà văn về cuộc sống và con người.

I. Mở bài:

– Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm và vấn đề cần nghị luận:

+ Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn; chuyên viết về nông thôn và đời sống của người dân nghèo với ngòi bút đôn hậu và hóm hỉnh.

+ Vợ nhặt là truyện ngắn tiêu biểu của Kim Lân in trong tập Con chó xấu xí [1962]; đoạn trích khắc sâu cảnh ngộ và số phận người nông dân trước cách mạng tháng Tám.

II. Thân bài:

Cảm nhận về cảnh ngộ và số phận người nông dân qua bữa cháo cám trong truyện ngắn “Vợ nhặt” [Kim Lân]

– Trước cảnh một cổ hai tròng “Đằng thì nó bắt giống đay, đằng thì nó bắt đóng thuế”, người nông dân rơi vào thảm cảnh đói khát, bên bờ vực của cái chết.

+ Hình ảnh bữa cơm ngày đói đón dâu mới mà trung tâm là nồi cháo cám với miếng cám nghẹn bứ trong cổ họng của mỗi người ám ảnh người đọc; có sức mạnh tố cáo một cách sâu sắc hiện thực xã hội bấy giờ.

+ Âm thanh của “tiếng trống thúc thuế dồn dập” cùng hình ảnh bầy quạ “lượn thành từng đám bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen” càng làm nổi bật tình cảnh bi đát, kiệt cùng, không lối thoát của con người. Cái chết bủa vây khắp nơi, trên trời, dưới đất giống như một tấm mạng nhện khổng lồ sắn sàng úp chụp lên những sinh linh bé nhỏ.

+ Câu nói của người mẹ mang đầy nỗi âu lo, thương xót cho số phận của những đứa con mình: Giời đất này chưa chắc đã sống qua được đâu các con ạ…à Hiện thực ngày đói thê thảm, tình cảnh khốn cùng của người nông dân trước Cách mạng.

– Tuy nhiên, cũng trong tình cảnh ấy, Kim Lân đã nhận ra sự chuyển biến dù rất mơ hồ trong nhận thức của những người nông dân về cách mạng. Chút ánh sáng đã hé ra trong những ngày đen tối đem lại cho con người niềm hy vọng sống mong manh.

+ Sự tiếc rẻ vẩn vơ cùng hình ảnh lá cờ đỏ cho thấy sự chuyển biến trong nhận thức của Tràng về cách mạng, tuy còn rất đỗi mơ hồ nhưng đã báo hiệu một sự thay đổi tất yếu trong tương lai.

+ Âm thanh của tiếng trống thúc thuế dồn dập cùng hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới được lặp lại vừa gợi ra cảnh ngộ đói khát thê thảm vừa gợi ra những tín hiệu của cuộc cách mạng.

– Đoạn trích cho thấy tư tưởng nhân đạo của nhà văn Kim Lân: Lên án xã hội thực dân phong kiến, phát xít; Cảm thông với nỗi khổ của con người; Trân trọng niềm khát vọng sống ngay bên bờ vực cái chết của người lao động nghèo; Niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng. Đó là tương lai đang nảy sinh trong hiện tại, vì thế nó quyết định đến âm hưởng lạc quan chung của câu chuyện.

Cảm nhận về cảnh ngộ và số phận người nông dân qua chi tiết Chí Phèo đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện [Chí Phèo – Nam Cao].

– Tình yêu của Thị Nở đã đánh thức cái tâm hồn ham sống, ham hạnh phúc, mong ước về một mái ấm gia đình trong Chí. Thế nhưng cái định kiến cay nghiệt của bà cô, những lời thuật lại đầy tức tối của Thị Nở chính là cú giáng cuối cùng vào tâm hồn tàn tạ, tuyệt vọng của Chí, dồn Chí Phèo đến cái cách giải quyết tiêu cực nhất là chết!

– Lần này Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với một tâm trạng đặc biệt, khác hẳn hai lần trước. Đó là khi bị Thị Nở cự tuyệt, hắn lại uống rượu và rồi xách dao ra đi. Hắn không rẽ vào nhà Thị Nở như dự định ban đầu, mà đến thẳng nhà Bá Kiến. Chí nhận ra rằng kẻ thù lớn nhất, độc ác nhất trong cuộc đời Chí luôn luôn chỉ có một mà thôi đó chính là tên Bá Kiến, tiềm thức đã ngủ yên biết bao năm nay của hắn bỗng được thức tỉnh.

– Dưới chân Chí Phèo hôm nay, không hẵn là bước chân của kẻ say rượu, mà đúng là bước chân của kẻ vừa say, vừa tỉnh. Chí Phèo tỉnh vì ý thức nhân phẩm đã trở về. Tình yêu thương mộc mạc và chân thành của Thị Nở đã làm thức dậy bản chất lương thiện của Chí Phèo “Hắn thèm lương thiện. Hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao!”

– Hôm nay, linh hồn Chí Phèo đã trở về, nhưng mọi người không nhận ra. Thế là Chí Phèo rơi vào một tấn bi kịch tinh thần đau đơn: Thèm lương thiện mà bị xã hội lạnh lùng cự tuyệt. Nên hôm nay Chí Phèo ra đi với sự thôi thúc của lòng căm thù, của thái độ kiên quyết đòi lại gương mặt và tâm hồn đã bị xã hội cuớp mất.

Xem thêm:  Hãy kể lại giấc mơ của một bông hoa

– Trước Bá Kiến, lần này Chí Phèo có một tư thế và cách nói năng chững chạc, quyết đoán và chủ động hơn. Bá Kiến ngạc nhiên đến sửng sốt: “Thôi cầm lấy vậy! Tôi k hông còn hơn”. Chí Phèo lại vênh mặt lên, nói một cách rất kiêu ngạo: “Tao đã bảo tao k hông cần tiền”. Bá Kiến nói mỉa mai và hỏi Chí: “Giỏi! Hôm nay mới thấy anh k hông đòi tiền. Thế thì anh cần gì?”. Chí Phèo dõng dạc nói: “Tao muốn làm người lương thiện”. Bá Kiến lại mỉa mai “Ồ tưởng gì! Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ”.

– Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không? Chỉ còn một cách…”. Chỉ còn một cách, đó là Chí Phèo “Xông vào văng dao tới….vừa chém túi bụi vừa k êu làng thật to”. Và sau khi giết Bá Kiến, hắn đã quay lại tự kết liễu cuộc đời mình “Hắn giẫy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi”.

– Hành động giết Bá Kiến hôm nay của Chí Phèo không phải là hành động giết người của một Chí Phèo lưu manh, mà là hành động lấy máu rửa hờn của một người nông dân đã thức tỉnh về quyền sống. Chí Phèo giết Bá Kiến để trả thù, để xả hết bao nỗi khốn nhục uất ức mà hắn phải chịu bấy lâu nay, để trả thù cho cái lương thiện mà tên Bá Kiến đã cướp mất của hắn.

– Nam Cao đã chọn một kết cục đau đớn, đầy bế tắc cho những người nông dân lương thiện bị đẩy đến bước đường cùng. Không thể trở về với cuộc đời lương thiện trước kia, khi mà mọi ngả đường đều bị chặn lối, họ chỉ còn biết trả thù và tự tìm cái chết. Đó là sự lựa chọ đau đớn và quyết liệt của con người trong tình cảnh khốn cùng.

– Hình ảnh Chí Phèo trong vũng máu, miệng muốn nói mà không ra tiếng vô cùng ám ảnh, có sức tố cáo xã hội thực dân phong kiến một cách gay gắt. Vì vậy cũng mang giá trị nhân đạo sâu sắc.

– Hình ảnh Chí Phèo trong cách kết thúc cuộc đời mình cho thấy số phận bi thảm của người nông dân trước cách mạng tháng Tám.

Nhận xét cái nhìn của các nhà văn về cuộc sống và con người:

– Giống nhau:

+ Cái nhìn cảm thông, đầy thương xót cho cảnh ngộ và số phận người nông dân trước Cách mạng

+ Trân trọng khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của con người.

– Khác nhau:

+ Với tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao khai thác tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của người nông dân trong xã hội thực dân phong kiến. Họ cũng có khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc nhưng thực tại tăm tối đã nhấn chìm họ. Nhà văn đã không tìm ra được lối thoát nào cho những con người khốn khổ ấy ngoài cái chết và sự lặp lại của những cuộc đời tương tự.

+ Với tác phẩm Vợ nhặt, Kim Lân không chỉ nhìn thấy cái cảnh đói khát bi thảm của người nông dân, thấy những ước mơ, khát vọng hạnh phúc của họ mà quan trọng hơn là nhà văn đã chỉ ra cho những con người khốn khổ ấy một lối thoát. Đi theo cách mạng sẽ là con đường mang lại ấm no, mang lại sự sống cho những người lao động nghèo khổ.

– Lí giải sự khác biệt:

+ Do hoàn cảnh sáng tác và hoàn cảnh lịch sử xã hội. Nam Cao viết Chí Phèo năm 1941 trong hoàn cảnh đen tối của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Kim Lân viết Vợ nhặt sau hòa bình lập lại 1954 khi dân tộc ta đã đi qua 2 mốc lớn của lịch sử là Cách mạng tháng Tám và cuộc kháng chiến chống Pháp. Ánh sáng Cách mạng giúp nhà văn thấy được hướng vận động và phát triển của lịch sử.

+ Do khuynh hướng văn học và phương pháp sáng tác: Tác phẩm Chí Phèo viết theo khuynh hướng văn học hiện thực phê phán. Nam Cao phản ánh hiện thực đen tối nhằm phê phán xã hội. Nhà văn yêu thương con người nhưng vẫn chưa nhìn thấy được lối thoát của người nông dân trong xã hội thực dân phong kiến lúc bấy giờ. Tác phẩm Vợ nhặt viết theo khuynh hướng hiện thực cách mạng nên Kim Lân có thể nhìn thấy bóng tối và ánh sáng bao trùm hiện thực trước cách mạng.

+ Do tài năng và tính cách sáng tạo của từng nhà văn. Cùng yêu thương tin tưởng con người nhưng Nam Cao có cái nhìn tỉnh táo sắc lạnh trước hiện thực nghiệt ngã của cuộc sống. Kim Lân lạị cho rằng dù trong bất cứ hoàn cảnh nào người nông dân vẫn có thể vượt lên cái chết, cái thảm đạm để mà vui mà hi vọng.

III. Kết bài:

– Cùng viết về số phận của người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám nhưng mỗi tác giả đã chọn một hướng đi riêng. Đều này cho thấy sự độc đáo trong phong cách sáng tác của họ.

– Cái nhìn về người nông dân trong tác phẩm của Nam Cao và Kim Lân nói riêng, trong nền văn học hiện thực trước và sau cách mạng tháng Tám nói chung đều thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc, mới mẻ.

  • Qua các nhân vật trong “Vợ nhặt”, hãy chứng minh: “Những người đói họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến cái sống”
  • Suy nghĩ về cái kết của mối tình Chí Phèo và thị Nở

ĐỀ THI ĐỀ NGHỊ KÌ THI QUỐC GIA THPT

MÔN NGỮ VĂN 12 – NĂM HỌC 2017-2018

Thời gian làm bài: 120 phút [ Không tính thời gian phát đề]

I . ĐỌC HIỂU [3 điểm]:

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

Thành công và thất bại chỉ đơn thuần là những điểm mốc nối tiếp nhau trong cuộc sống để tôi luyện nên sự trưởng thành của con người. Thất bại giúp con người đúc kết được kinh nghiệm để vươn tới chiến thắng và khiến những thành công đạt được thêm phần ý nghĩa.

Không có ai luôn thành công hay thất bại, tuyệt đối thông minh hay dại khờ, tất cả đều phụ thuộc vào nhận thức, tư duy tích cực hay tiêu cực của mỗi người. Như chính trị gia người Anh, Sir Winston Churchill, từng nói, “Người bi quan nhìn thấy khó khăn trong mỗi cơ hội, còn người lạc quan nhìn thấy cơ hội trong mỗi khó khăn”. Sẽ có những người bị ám ảnh bởi thất bại, bị chúng bủa vây, che lấp những cơ hội dẫn tới thành công. Tuy nhiên, đừng sa vào vũng lầy bi quan đó, thất bại là một lẽ tự nhiên và là một phần tất yếu của cuộc sống. Đó là một điều bạn không thể tránh khỏi, nếu không muốn nói thực sự là trải nghiệm mà bạn nên có trong đời. Vì vậy, hãy thất bại một cách tích cực.

[Trích từ cuốn “Học vấp ngã để từng bước thành công” – John C.Maxwell]

Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích [0,5 đ]

Câu 2: Nêu chủ đề chính của đoạn trích [0,5 đ]

Câu 3: Tác giả khuyên chúng ta cần có thái độ ra sao trước thất bại? [1,0 đ]

Câu 4: Anh/chị có đồng tình với quan điểm: “Thất bại giúp con người đúc kết được kinh nghiệm để vươn tới chiến thắng và khiến những thành công đạt được thêm phần ý nghĩa” không? Vì sao? [1,0 đ]

LÀM VĂN [7 điểm]:


Câu 1 [2 điểm]:

Hãy viết một đoạn văn ngắn [khoảng 200 từ] trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến sau: Người thành công luôn tìm thấy cơ hội trong mọi khó khăn. Kẻ thất bại luôn thấy khó khăn trong mọi cơ hội.

Câu 2 [5 điểm]:

Cảm nhận của anh/chị về cảm xúc, tâm trạng và những thay đổi của nhân vật Tràng từ khi có vợ [truyện ngắn Vợ nhặt – Kim Lân]? Từ đó liên hệ với cảm xúc, tâm trạng của nhân vật Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở [ truyện ngắn Chí Phèo – Nam Cao] để thấy được chiều sâu của ngòi bút nhân đạo ở hai nhà văn.

HẾT

ĐỀ THI ĐỀ NGHỊ KÌ THI QUỐC GIA THPT

MÔN NGỮ VĂN 12 – NĂM HỌC 2017-2018

Thời gian làm bài: 120 phút [ Không tính thời gian phát đề]

I . ĐỌC HIỂU [3 điểm]:

Câu 1. Phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích là phương thức nghị luận [0,5 đ]

Cho 0,5 đ khi trả lời đúng theo nội dung trên.

Cho 0 đ khi trả lời sai.

Câu 2. Chủ đề chính của đoạn trích là nói về sự tất yếu của thành công và thất bại trong cuộc sống của con người. [0,5 đ]

Cho 0,5 đ khi trả lời đúng theo nội dung trên.

Cho 0,25 đ khi trả lời được ½ ý trên.

Cho 0 đ khi trả lời sai hoặc chưa rõ ý.

Câu 3,Tác giả khuyên “đừng sa vào vũng bùn bi quan”; “hãy thất bại một cách tích cực”. [1,0 đ]

Cho 1,0 đ khi trả lời đúng theo nội dung trên.

Cho 0,5 đ khi trả lời được ½ ý trên.

Cho 0 đ khi trả lời sai .

Câu 4,Học sinh viết một đoạn văn ngắn, được tự do bày tỏ quan điểm của mình và lí giải vì sao lại có quan điểm trên. [1,0 đ]

Lưu ý:

– HS có thể đồng tình hoặc không đồng tình hoặc không hoàn toàn đồng tình…với quan điểm của tác giả

– Yêu cầu: Lập luận chặt chẽ, lí lẽ thuyết phục, sáng tạo nhưng phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức của dân tộc.

GK linh hoạt cho điểm, khuyến khích những cách trả lời có sang tạo của HS.

LÀM VĂN [7 điểm]:

Câu 1 [2 điểm]:

Yêu cầu về kĩ năng:

Trước hết phải đảm bảo yêu cầu nội dung và hình thức của một đoạn văn.

Biết vận dụng phối hợp các thao tác lập luận, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thực tế chính xác, có chọn lọc.

Yêu cầu về nội dung:

Giải thích:

Người thành công là người đạt được mục đích mà mình đặt ra sau một quá trình nỗ lực, cố gắng.

Kẻ thất bại là người không thực hiện được những mong muốn, dự định đã đặt ra.

Cơ hội: hoàn cảnh thuận tiện gặp được để làm việc gì mình mong ước.

=> Câu nói khẳng định sự thành bại của mỗi người phụ thuộc vào cách người ấy đón nhận và xử thế trước những vấn đề của đời sống.

Bàn luận:

Thành và bại luôn song hành như một thực thể khách quan. Không ai không từng gặp thất bại, ngay cả những người thành công. .

Sự thành bại của mỗi người không chỉ phụ thuộc vào tài năng hay cơ hội mà còn ở thái độ của người đó trước những khó khăn trong cuộc sống:

+ Với những người giàu nghị lực, mỗi khó khăn là cơ hội để tích lũy kinh nghiệm, kiểm chứng năng lực của bản thân. Và như thế, họ sẽ luôn tìm thấy cơ hội trong mỗi khó khăn để thành công .

+ Với những người bi quan, lười biếng khi gặp khó khăn thử thách vội chán nản, tự tìm thấy lí do để thoái thác công việc, từ bỏ ước mơ. Không vượt qua khó khăn càng khiến họ mất hết niềm tin để rồi chỉ thấy khó khăn, không nhận ra cơ hội. Và như thế họ sẽ luôn thất bại.

Cuộc sống rất khắc nghiệt nhưng cũng luôn ẩn giấu nhiều cơ hội mà mọi người cần nắm bắt.

Sự thành bại ở một giai đoạn không có ý nghĩa trong suốt cả cuộc đời. Mọi người cần có cách ứng xử trước mọi thành bại để đạt được những điều mình mong ước. Thành công chỉ có được sau quá trình học tập, tích lũy, nỗ lực, rèn luyện lâu dài.

– Phê phán thái độ sống hèn nhát, lười biếng, dễ gục ngã, mất niềm tin sau những lần thất bại.

Bài học nhận thức và hành động:

– Cần phải có niềm tin, nghị lực lớn để vượt qua những thử thách khó khăn trong cuộc sống, để luôn tìm thấy cơ hội trong mọi khó khăn.

– Không ngại đối mặt với khó khăn. Coi khó khăn, thử thách như một phần tất yếu của cuộc sống.

Câu 2 [5 điểm]:

Yêu cầu về kĩ năng:

HS biết vận dụng các thao tác lập luận để làm bài nghị luận văn học.

Bài làm có bố cục ba phần: Mở bài, thân bài, kết bài; biết phân đoạn hợp lí trong phần thân bài.

Không sai lỗi diễn đạt, dung từ, chính tả…

Trình bày rõ rang, sạch sẽ, chữ viết ngay ngắn…

Yêu cầu về nội dung:

Giới thiệu chung[0,25đ]:

– Giới thiệu về nhà văn Kim Lân và tác phẩm Vợ nhặt

– Nêu vấn đề nghị luận.

Giaỉ thích, phân tích, chứng minh [3,5 đ]:

– Giải thích khái niệm giá trị nhân đạo: Gía trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính, được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng vươn dậy của họ.

– Cảm nhận về diễn biến cảm xúc, tâm trạng và những thay đổi của nhân vật Tràng kể từ khi có vợ:Dù đang sống trong nạn đói khủng khiếp nhưng Tràng vẫn hiện lên là người hiền lành, cởi mở, bề ngoài thô kệch vụng về nhưng ẩn chứa nhiều vẻ đẹp bên trong:

+ Tràng là người nhân hậu, luôn yêu thương người cùng cảnh ngộ:Giữa lúc nạn đói hoành hành, vì đói người ta có thể làm những điều ti tiện để có được miếng ăn, nhưng anh sắn sàng đãi người bà xa lạ một bữa bốn bát bánh đúc.

+ Tràng rất khao khát hạnh phúc:

Câu nói nửa đừa nửa thật “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” ẩn giấu niềm khao khát hạnh phúc gia đình.

Cử chỉ vụng về, nhưng tình cảm chân thực [Tràng mua hai hào dầu thắp sáng]. -à Tràng trân trọng người vợ nhặt, trận trọng hạnh phúc của mình.

Trên đường dẫn người đàn bà về, Tràng “tự đắc”, quên hết cái đói, chỉ có tình cảm với người đàn bà đi bên.

Lo sợ mất đi hạnh phúc [ phân tích: tâm trạng của Tràng khi ngóng mẹ về, lời nói của Tràng khi đối diện với mẹ, tâm trạng của Tràng khi được mẹ đồng ý…]

+ Có vợ, Tràng có nhiều thay đổi. Cảm nhận được hạnh phúc khiến Tràng trở nên chững chạc hơn, khôn khéo hơn, yêu cuộc sống, yêu gia đình, có ý thức xây dựng hạnh phúc và lạc quan, hi vọng vào tương lai [d.c]

– Liên hệ, so sánh với cảm xúc, tâm trạng nhân vật chí Phèo sau khi gặp Thị Nở để thấy chiều sâu của ngòi bút nhân đạo ở hai nhà văn [1đ]:

Giống nhau:

– Cả hai nhà văn đều thể hiện tấm lòng cảm thông, thương xót cho số phận những người nông dân – nạn nhân của xã hội cũ.

– Cả hai nhà văn với trái tim nhân đạo đã phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn người nông dân Việt Nam ngay cả khi họ rơi vào tình cảnh khốn cùng thê thảm: Họ là những người nông dân lương thiện, khát khao sống, giàu tình yêu thương, luôn khát khao hạnh phúc, biết ước mơ…=> giá trị nhân đạo mới mẻ được hai nhà văn thể hiện sinh động mà chân thực.

Dẫn chứng: Cũng giống như Kim lân phát hiện ra vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Tràng ngay cả khi nhân vật đang kề cận với cái đói, cái chết, Nam Cao phát hiện ra ẩn sâu bên trong Chí phèo vẫn là một người lương thiện với những phẩm chất tốt đẹp. Khi đón nhận bát cháo hành, tình người chân thành của Thị Nở, Chí Phèo thức tỉnh, hắn cảm nhận được hạnh phúc, hắn biết yêu thương và khao khát yêu thương [ hắn cảm thấy yêu Thị Nở, thấy thị cũng có duyên…]; hắn khát khao hạnh phúc –“hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”; hắn lại nhớ về ước mơ khi xưa và lại mơ ước, hắn khát khao được trở về với cuộc đời lương thiện, hắn gửi gắm ước mơ, hi vọng vào Thị Nở…

Khác nhau:

– Nam Cao để Chí Phèo rơi vào bi kịch tinh thần đau đớn, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Chí phải chết trên ngưỡng cửa quay về cuộc đời lương thiện. Cánh cửa cuộc đời, cánh cửa hạnh phúc và hi vọng đóng sập trước mặt Chí => Kết án xã hội và đòi quyền sống cho con người

– Kim Lân đã đưa nhân vật đến một lối thoát chắc chắn là đi theo lá cờ đỏ, theo Việt Minh đi phá kho thóc của Nhật, cách mạng sẽ giải phóng cho họ. Hạnh phúc của Tràng sẽ được bền lâu, ước mơ hi vọng của Tràng sẽ trở thành hiện thực. => Mở ra con đường giải quyết bế tắc: đi theo cách mạng

Lí giải sự giống và khác nhau:

– Giống nhau vì: Hai tác giả đều là những nhà văn có trái tim nhân đạo lớn; sống gắn bó với nông thôn và người nông dân; cùng viết về người nông dân trước CMT8.

– Khác nhau: + Hoàn cảnh sáng tác khác nhau [Nam Cao sáng tác Chí Phèo năm 1941, trước khi CM tới. Còn KL viết Vợ nhặt khi CMT8 đã thành công nên tác giả có khả năng và cần thiết phải chỉ ra chiều hướng tích cực của đời sống xã hội.

+ Do phong cách sáng tác khác nhau tạo được những nhân vật có những nét khác nhau

Đánh giá về tư tưởng nhân đạo mới mẻ và tài năng của hai nhà văn

Khái quát lại vấn đề [0,25 đ].

Bài viết gợi ý:

Video liên quan

Chủ Đề