Quân đội nhà nguyễn được tổ chức như thế nào năm 2024

Tính toán thiết kế cung cấp điện cho phân xưởng cưa gỗ của công ty cổ phần Phúc Thịnh TX. Đồng Xoài - Bình Phước

  • Tìm hiểu về Chitosan và những ứng dụng của nó
  • Thực trạng và giải pháp cho vay tiêu dùng tại ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam - Chi nhánh Bình Dương - PGD Hòa Phú
  • Thực trạng và hướng phát triển làng nghề sơn mài Tương Bình Hiệp - Bình Dương từ năm 1986 đến nay

Related documents

  • Thực trạng kinh doanh bảo hiểm xe máy tại công ty cổ phần bảo hiểm AAA – chi nhánh Bình Dương
  • Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay tiêu dùng cá nhân có tài sản đảm bảo tại ngân hàng TPCP Việt Á chi nhánh Bình Dương
  • Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay bất động sản tại ngân hàng cổ phần Việt Á – Chi nhánh Bình Dương
  • Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ tại công ty cổ phần bảo hiểm AAA – chi nhánh Bình Dương
  • Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay mua nhà của khách hàng cá nhân tại ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam - Chi nhánh Thủ Dầu Một
  • Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay mua ô tô đối với khách hàng cá nhân tại Ngân hàng TMCP Việt Á – Chi nhánh Bình Dương

Preview text

TRƢỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT KHOA SỬ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

CHUYÊN NGÀNH SƢ PHẠM LỊCH SỬ

TỔ CHỨC QUÂN ĐỘI NHÀ NGUYỄN

[1802 - 1858]

Giáo viên hƣớng dẫn : TH Lê Vy Hảo

Sinh viên : Võ Thị Thơm

Mã số sinh viên : 1156020027

Khóa học : 2011- 2015

Bình Dƣơng, tháng 5 năm 2015

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành đề tài em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với thầy cô khoa Sử trường Đại học Thủ Dầu Một đã nhiệt tình giảng dạy, cung cấp kiến thức cho em trong suốt thời gian học ở trường. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn Th Lê Vy Hảo đã tận tình hướng dẫn và góp ý cho em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận này. Qua đây em cũng xin gửi lời cám ơn đến người thân và gia đình đã động viên, ủng hộ, đến tất cả bạn bè đã giúp đỡ em trong việc tìm kiếm nguồn tài liệu tham khảo và đưa ra ý kiến đóng góp cho khóa luận của em được hoàn thiện hơn. Với khả năng hiểu biết còn có hạn, chắc chắn nội dung của khóa luận không tránh khỏi những hạn chế, kính mong nhận được sự hướng dẫn, góp ý từ quý thầy, cô. Một lần nữa em xin trân trọng cám ơn!

Võ Thị Thơm

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN PHẢN BIỆN

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

Bình Dương, ngày tháng năm GVPB [Ký tên]

BẢNG TRA CỨU THUẬT NGỮ

THUẬT NGỮ GIẢI THÍCH

Biên chế

Sắp xếp người và trang bị vũ khí, phương tiện kĩ thuật hợp lý trong một tổ chức quân đội nhằm bảo đảm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức đó. Binh chủng

Bộ phận hợp thành quân đội, có chức năng trực tiếp chiến đấu, có vũ khí, trang bị kĩ thuật và phương pháp tác chiến đặc thù. Bộ binh L chiực lượếm hong trặc giựữc ti gìn đất đai.ếp tiêu diệt sinh lực của đối phương, đánh Cấp hiệu Cấp bậc quân hàm để phân biệt chức vụ trong quân đội. Cấm binh Quân cơ động, bảo vệ trong kinh thành. Cơ binh Là lực lượng binh lính đóng giữ các tỉnh, trấn. Doanh Đơnkiến Vi vị ệtt Nam.ổ chức cao nhất của quân đội một số triều đại phong Đội Đơnkiến. vị tổ chức cơ sở của quân đội một số triều đại phong Kỵ binh Lính giáp chiến trên lưng ngựa. Long kỵ binh Lính bộ binh di chuyển bằng ngựa nhưng lúc giáp chiến lại xuống ngựa để chiến đấu. Ngũ Đơn vị tổ chức nhỏ nhất trong quân đội một số triều đại phong kiến Việt Nam. Pháo binh Lực lượng tác chiến bằng hỏa lực, thường được trang bị các loại pháo, và súng. Quân thường trực lực lượng quân chủ lực đóng ở các dinh. Quân túc vệ Loại quân bảo vệ nhà vua, triều đình và kinh đô. Thân binh Quân hầu cận, bảo vệ nhà vua. Tinh binh Quân gồm một số vệ, đội thuộc các phủ, huyện, nha... Thập Đơn vị tổ chức trong quân đội liền trên ngũ, dưới đội. Thổ binh Quân địa phương đượthành trì và đóng đồn ởc tuy vùng rừng núi và biên giớển từ thổ dân, dùng đểi. canh gác Thủy binh Quân có khảsông và vùng biể năng tiến hành các hoạt độn. ng chiến đấu trên Thuyền Đơn triều đạ vị i phong kitổ chức thếấn nhất của thủy quân trong quân đội các Tượng binh Quân chiến đấu trên lưng voi Vệ Đơn vịđội, dướ trong quân đội doanh. i một số triều đại phong kiến; liền trên Vệ binh Lực lượng quân lính đóng ở kinh đô

Chƣơng 3: ĐÁNH GIÁ VỀ TỔ CHỨC VÀ VAI TRÒ CỦA QUÂN ĐỘI NHÀ - 2.2. Ở địa phương - 2.2. Ở những khu vực trọng yếu

  • 1. Cơ cấu tổ chức quân đội nhà Nguyễn
    • 2.3. Cơ cấu về binh chủng
    • 2.3. Cơ cấu về quân hiệu
    • 2.3. Cơ cấu về cấp hiệu và số quân
  • 1. Phép tuyển chọn binh lính
  • 1. Binh khí và hình thức luyện tập
    • 2.5. Binh khí
    • 2.5. Hình thức luyện tập
  • NGUYỄN
    • 1. Những đặc điểm trong tổ chức quân đội nhà Nguyễn
    • 1. Ưu điểm và hạn chế của quân đội nhà Nguyễn
      • 3.2. Ưu điểm
      • 3.2. Hạn chế...............................................................................................
    • 1. Vai trò của quân đội đối với tiến trình phát triển nhà Nguyễn
  • KẾT LUẬN
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO
  • PHỤ LỤC

1

MỞ ĐẦU

  1. Lý do chọn đề tài Quân đội là “tổ chức vũ trang tập trung, thường trực và chuyên nghiệp do một nhà nước hay một phong trào chính trị xây dựng nhằm mục tiêu giành chính quyền, giải phóng đất nước, bảo vệ Tổ quốc bằng đấu tranh vũ trang [chiến tranh, nội chiến...] hoặc tiến hành chiến tranh để thực hiện mục đích chính trị của nhà nước, của phong trào chính trị đó” [20; tr. 597]. Quy mô tổ chức quân đội phụ thuộc vào mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của nhà nước hoặc phong trào chính trị trong từng thời kỳ hoặc giai đoạn lịch sử cụ thể. Quá trình hình thành quân đội gắn liền với sự phát triển của lực lượng vũ trang các đơn vị, quân chủng, binh chủng cũng như các cấp chỉ huy qua từng thời kỳ. Trong tiến trình lịch sử dân tộc ta thời cổ trung đại, quân đội Việt Nam được định hình và ngày càng hoàn thiện, gắn với công cuộc bảo vệ vương triều và an ninh quốc gia. Từ chỗ lực lượng vũ trang sơ khai thời đại Hùng vương đến quân đội chính quy, tinh nhuệ của các triều đại Lý, Trần, Hồ, Lê Sơ và nhất là nhà Nguyễn - triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Tuy kéo dài hơn 140 năm, từ khi Gia Long lên ngôi vua năm 1802 đến khi Bảo Đại thoái vị năm 1945, nhưng thời kỳ tự chủ của nhà Nguyễn chỉ kéo dài 60 năm [1802 - 1862], trước khi nhà Nguyễn ký hòa ước Nhâm Tuất nhường ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho thực dân Pháp. Trong đó, giai đoạn an lạc của nhà Nguyễn chỉ được duy trì đến giữa năm 1858, trước khi thực dân Pháp chính thức nổ súng xâm lược nước ta. Trong hơn nữa thế kỷ đầu của triều đại, các vua nhà Nguyễn [Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức] đã dày công xây dựng một hệ thống quân đội vững mạnh, mà xét trên những phương diện nhất định, có phần tiến bộ hơn so với các triều đại quân chủ Việt Nam trước đó. Quân đội của nhà Nguyễn được thiết lập trên cơ sở kế thừa có chọn lọc bộ máy tổ chức quân đội thời kỳ trước, đồng thời tiếp thu khoa học quân sự của phương Tây. Trải qua quá trình tổ chức và thực thi các hoạt động an ninh quốc phòng, quân đội nhà Nguyễn đã có những đóng góp lớn trong quá trình mở rộng và bảo vệ lãnh thổ đất nước, duy trì sự ổn định xã hội và cuộc sống bình yên của dân chúng.

3

định Đại nam Hội điển Sử lệ”. Do biên soạn dưới hình thức “Hội điển” 1 nên giá trị lớn nhất của tác phẩm là trình bày một cách tập trung và phong phú những vấn đề như giai chế phẩm cấp, biên chế tổ chức, hình thức luyện tập,... của quân đội nhà Nguyễn; được ghi chép trong phần Bộ binh, bao gồm 40 quyển, từ 137 đến 178. Cụ thể, từ quyển 137 đến 139 nói về giai chế phẩm cấp từ đề đốc cho đến quan viên quản lý đồn ải, cửa bể. Quyển 140 - 143, trình bày về các doanh, vệ, đội trong cơ cấu quân hiệu ở kinh thành. Quyển 144 - 147, tập trung vào quân hiệu ở các tỉnh bao gồm quân hiệu trước và sau cải cách hành chính của Minh Mạng. Quyển 148, trình bày về việc tuyển quân, mộ quân và quyển 149, trình bày số quân. Quyển 150 - 152, nói về lệ, cấp bậc kinh binh, hiệu cờ và nhung phục ban võ. Quyển 153 - 157, phép kén chọn binh lính, binh khí và cách luyện tập, thao diễn. Quyển 158 - 162, lệ canh giữ ở kinh thành, tuần tra, kiểm soát vùng biên giới và hải đảo. Quyển 163 - 173, trình bày về việc khen thưởng, xử phạt đối với tướng lĩnh và binh sĩ. Quyển 174, nói về tượng chính bao gồm; ngạch voi, mua voi, chăn voi, vật dụng cho voi... Quyển 175, trình bày về ngạch ngựa, cách diễn tập cũng như trang thiết bị của ngựa trong phần mã chính. Quyển 176 - 178, chú trọng vào việc sát hạch quan viên, xét công trạng, lệ phân xử đối với những quan viên tự ý bỏ nơi nhậm chức, sai binh lính làm công việc riêng. Cho đến nay, “Khâm định Đại nam Hội điển Sử lệ” vẫn được xem là một “bộ từ điển” quý giá khi nghiên cứu về tổ chức quân đội nhà Nguyễn. Tuy nhiên, do là một công trình thông sử, nên tác phẩm không đưa ra những đánh giá về đặc điểm trong tổ chức và vai trò quân đội nhà Nguyễn đối với tiến trình phát triển của vương triều Nguyễn. Những vấn đề về việc tổ chức quân đội nhà Nguyễn còn được phản ánh rãi rác trong các bộ sử biên niên do các sử quan cũng như trí thức nhà Nguyễn biên soạn lại như “Đại Nam thực lục”, “Minh Mạng chính yếu”,... “Đại Nam thực lục” là bộ chính sử lớn do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, gồm hai phần: Tiền biên [thời kỳ các chúa Nguyễn] và Chính biên [thời kỳ

1 Ghi chép lại các điển pháp, quy chuẩn và các dữ kiện liên quan đến tổ chức và hoạt động của một triều đại, do nội các triều Nguyễn biên soạn vào giữa thế kỷ XIX.

4

các vua nhà Nguyễn]. Bốn kỷ đầu của phần Chính biên ghi chép về tình hình quân đội, cung cấp nhiều tư liệu có giá trị lịch sử về hình thức tuyển chọn binh lính đối với từng địa phương, hình thức luyện tập của binh sĩ qua các đời vua,... Mỗi kỷ nói về tổ chức quân đội của một đời vua. Kỷ thứ nhất - đời Gia Long từ 1778 đến 1819, trình bày về việc xây dựng và củng cố bộ máy tổ chức quân đội của Gia Long sau khi lên ngôi bao gồm việc phân cử các cấp chỉ huy cùng với đó là thiết lập các cơ quan trong bộ binh, phép tuyển chọn binh lính ở kinh thành và các tỉnh trong cả nước. Kỷ thứ hai - đời Minh Mạng từ 1820 đến 1840, ngoài những phần đã trình bày trong đời Gia Long, còn có các chính sách phát triển thủy quân của Minh Mạng, thể hiện qua các chỉ dụ cử người sang phương Tây học tập kĩ thuật quân sự, nhằm mục đích bảo vệ an ninh vùng biển. Kỷ thứ ba - đời Thiệu Trị từ 1841 đến 1847. Trong kỷ này, tác phẩm chỉ trình bày sơ lược về một số chỉ dụ của Thiệu Trị trong xây dựng quân đội trên cơ sở phát huy những thành tựu của triều đại trước đó. Kỷ thứ tư - đời Tự Đức từ 1847 đến 1883, ghi chép tỉ mĩ các sự kiện liên quan đến việc kén chọn, tập duyệt của binh lính, đặc biệt phần này còn đề cập đến tình trạng bảo quản trang thiết bị, đời sống của các binh sĩ. Mặc dù, trình bày khá chi tiết về nhiều vấn đề liên quan đến việc tổ chức quân đội nhưng các vấn đề về quân hiệu, cấp chỉ huy thì vẫn chưa được trình bày cụ thể trong tác phẩm này. Trong khi đó, “Minh Mạng chính yếu” do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, cung cấp nguồn sử liệu phong phú về việc khảo hạch binh lính và các chính sách thưởng phạt đối với các binh sĩ đào ngũ,... được ghi chép cụ thể trong quyển 14 và quyển 20 - 25. Quyển 14 của tác phẩm này chủ yếu trình bày về binh chế bao gồm các chiếu chỉ, tấu trình xin hoãn việc đòi lính ở một số vùng và lệ thao diễn cho các binh chủng. Quyển 20 và 21, ghi chép về lệ thưởng, phạt đối với tướng lĩnh và binh sĩ trấn giữ ở biên ải. Quyển 22, tập trung nói về các tờ sớ báo cáo việc binh cả về mặt tổ chức lẫn trang bị, chế tạo vũ khí ở các xưởng vũ khố trong và ngoài kinh thành. Quyển 23, trình bày về việc xây dựng hệ thống phòng thủ của nhà Nguyễn ở trên đất liền lẫn hải đảo nhằm giữ vững an ninh bờ cõi của nước ta. Quyển 24 - 25, nói về vấn đề phủ biên và nhu viễn mà quan trọng nhất là các

6

  1. Đối tƣợng, phạm vi và mục tiêu nghiên cứu
    1. Đối tƣợng nghiên cứu Đề tài tập trung vào việc nghiên cứu bộ máy tổ chức quân đội nhà Nguyễn bao gồm: cơ cấu quân đội, biên chế tổ chức và các cấp chỉ huy. Đồng thời tác giả cũng trình bày một số vấn đề có liên quan như: Phép tuyển chọn, cách thức luyện tập của binh lính và các loại binh khí thường sử dụng trong quân đội nhà Nguyễn.
    2. Phạm vi nghiên cứu
      • Về thời gian: Tìm hiểu quân đội nhà Nguyễn trong giai đoạn từ năm 1802, vua Gia Long lên ngôi đến năm 1858 khi thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đây là giai đoạn mà các vua nhà Nguyễn có điều kiện để quan tâm và dồn sức nhiều cho củng cố xây dựng quân đội hùng mạnh để bảo vệ vương triều.
    3. Về không gian: Tổ chức quân đội Việt Nam trên phạm vi cả nước, dưới sự cai trị của các vua nhà Nguyễn.
    4. Mục tiêu nghiên cứu Đề tài tập trung làm rõ:
      1. Quá trình hình thành quân đội dưới thời các chúa Nguyễn, để qua đó hiểu được tiến trình hình thành hệ thống tổ chức quân đội nhà Nguyễn.
    5. Những vấn đề cơ bản của tổ chức quân đội nhà Nguyễn như hình thức tuyển chọn binh lính, binh khí, bộ máy và cơ cấu tổ chức quân đội gắn với từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Từ đó, rút ra những đánh giá về ưu điểm, hạn chế trong việc tổ chức quân đội của nhà Nguyễn.
  2. Phƣơng pháp nghiên cứu Việc thực hiện đề tài dựa trên việc vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu. Để làm sáng tổ nội dung nghiên cứu, tác giả sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
    • Phương pháp lịch sử: Bám sát vào tư liệu, sự kiện lịch sử để tìm hiểu quá trình hình thành, phát triển của hệ thống tổ chức quân đội nhà Nguyễn.

7

  • Phương pháp logic: Đưa ra một số nhận xét, đánh giá về tổ chức quân đội của nhà Nguyễn; làm rõ sự kế thừa và những điểm khác biệt của tổ chức quân đội nhà Nguyễn so với các triều đại trước. Bên cạnh đó, để tăng tính khoa học và hiệu quả trong việc thực hiện đề tài, tác giả còn sử dụng một số phương pháp phân tích tổng hợp khác như đối chiếu so sánh, lập bảng thống kê,...
  • Nguồn tài liệu Để nghiên cứu về vấn đề tổ chức quân đội nhà Nguyễn [1802 - 1858], tác giả tập trung khai thác những nguồn tư liệu sau:
  • Các loại tư liệu bậc 1: Bao gồm các bộ sử của nhà Nguyễn biên soạn, trong đó quan trọng nhất là “Đại Nam thực lục” của Quốc sử Quán triều Nguyễn biên soạn, bộ “Khâm định Đại nam Hội điển Sử lệ” của Nội các triều Nguyễn, “Minh Mệnh chính yếu” của Quốc sử quán triều Nguyễn. Ngoài ra, còn có các công trình sử học khác như “Đại Việt sử ký toàn thư” do Ngô Sĩ Liên và các sứ thần triều Lê biên soạn, “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú.
  • Các tài liệu bậc 2: Các giáo trình, sách chuyên khảo về nhà Nguyễn như “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim, “Lịch sử nhà Nguyễn - một cách tiếp cận mới” của Phan Ngọc Liên, “Bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam” do Nxb. Trẻ phát hành, “Giáo trình lịch sử Việt Nam”, tập 3 của Nguyễn Cảnh Minh,...
  • Các tài liệu bậc 3: Các bài nghiên cứu trên các tạp chí chuyên ngành như: “Quân đội nhà Nguyễn” của Đỗ Văn Minh [đăng trên tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 6/1993], “Tổ chức quân đội và vũ khí quân dụng của Việt Nam dưới triều Nguyễn” của Vĩnh Hồ [tạp chí nghiên cứu lịch sử quân sự, số 7/1789]... Ngoài ra, tôi còn tham khảo một số tư liệu và thông tin về lịch sử triều Nguyễn trên một số website chuyên đề lịch sử và quân sự.
  • Đóng góp của đề tài Thông qua việc tìm hiểu, khai thác nguồn tư liệu gốc và tư liệu tham khảo , tác giả mong muốn phục dựng lại một bức tranh tương đối toàn vẹn về hệ thống tổ chức quân đội nhà Nguyễn [1802 - 1858].

9

Chƣơng 1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA QUÂN ĐỘI CHÚA NGUYỄN [THẾ KỶ XVI - XVIII]

  1. Bối cảnh lịch sử thế kỷ XVI - XVIII Bắt đầu từ thế kỷ XVI, đất nước ta mất dần cảnh thịnh trị. Các thế lực phong kiến ra sức tranh giành quyền lực, mở ra giai đoạn khủng hoảng chính trị trong lòng chế độ phong kiến Việt Nam. Năm 1504, sau khi vua Lê Hiến Tông mất, các vua Uy Mục và Tương Dực sao nhãng việc triều chính, chỉ lo ăn chơi, sa đọa. Lợi dụng tình hình đó, bọn quan lại, địa chủ ra sức hoành hành, hạch sách nhân dân, chiếm đoạt ruộng đất. Nhân dân khổ cực đã nổi dậy đấu tranh ở nhiều nơi. Một số thế lực phong kiến cũng nhân lúc chính quyền trung ương suy yếu đã họp quân, đánh nhau tranh chấp quyền lực. Thế lực phong kiến mạnh nhất lúc bấy giờ là của Quốc công thái phó Mạc Đăng Dung. Sau khi dẹp yên các thế lực phong kiến năm 1527, Mạc Đăng Dung buộc vua Lê nhường ngôi, lập ra nhà Mạc. Trong những năm đầu trị vì, nhà Mạc tổ chức chính quyền và quân đội theo mô hình cũ của nhà Lê. Năm 1528, “Mạc Đăng Dung củng cố lại binh chế, tăng cường số quân bảo vệ kinh thành và nhà vua. Các vua kế nghiệp cố gắng ưu đãi quân sĩ, hình thành chế độ ruộng lính, theo đó các xã có ruộng công hay ruộng chùa đều phải trích ra một phần cấp cho lính theo chế độ 4 - 5 mẫu/người” [36; tr. 342]. Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian ngắn, nhà Mạc bước vào thời kỳ suy thoái dần. Trước sự tấn công của quân Minh, nhà Mạc tỏ ra lúng túng, đã buộc phải dâng sổ sách cho quân Minh, chịu thần phục với mong muốn yên mạn Bắc, để tập trung lực lượng đối phó với các lực lượng cựu thần nhà Lê ở mạn Nam. Sự kiện này đã làm cho quần thần và nhân dân chán nản, phẫn nộ. Nhân lúc họ Mạc mất dần sự tin tưởng của nhân dân, một số cựu thần nhà Lê, đứng đầu là Nguyễn Kim mượn khẩu hiệu “phù Lê diệt Mạc”, đã nổi dậy ở vùng Thanh Hóa, lập ra nhà nước mới; sử cũ gọi là Nam triều để phân biệt với Bắc triều của nhà Mạc. Cuộc chiến tranh Nam - Bắc triều kéo dài cho đến cuối thế kỷ XVI thì triều Mạc bị lật đổ. Đất nước bước đầu được thống nhất lại.

10

Tình hình chính trị trong nước mới được tạm ổn chưa lâu thì xảy ra sự kiện phân chia Đàng Trong - Đàng Ngoài. Mầm móng của sự phân liệt bắt nguồn từ cuộc chiến Nam - Bắc triều. Năm 1545, “sau khi Nguyễn Kim bị mưu sát, Trịnh Kiểm được vua Lê đưa lên thay thế. Để giữ vững quyền hành ông đã tìm cách loại trừ phe cách của Nguyễn Kim. Trong tình hình đó, người con thứ của Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng xin vào trấn giữ vùng đất Thuận Hóa. Ở đây chúa Nguyễn tổ chức lại chính quyền, dần tách khỏi sự phụ thuộc họ Trịnh, chỉ nộp thuế theo lệ” [36; tr. 433 - 434]. Lấy cớ đó, năm 1627, họ Trịnh đem quân vào đánh Thuận Hóa. Cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn bắt đầu. Tình trạng nội chiến kéo dài cho đến cuối thế kỷ XVIII, gây nên hậu quả hết sức nặng nề cho đất nước, trước hết là tình trạng phân hóa về chính trị - xã hội ở hai Đàng. Ở Đàng Ngoài, song hành hai thế lực phong kiến vua Lê - chúa Trịnh. Tuy nhiên, sự tồn tại của vua Lê chỉ mang tính chất tượng trưng, còn mọi thực quyền đều nằm trong tay chúa Trịnh. Ở trung ương hình thành hai bộ phận là triều đình và phủ chúa. Triều đình đứng đầu vẫn là vua nhưng quyền hành đã bị thu hẹp. Trong khi đó ở phủ chúa, quyền lực được mở rộng bao gồm một số quan văn, võ cùng chúa bàn bạc, quyết định các chính sách của nhà nước. Về sau, chúa Trịnh còn cho đặt thêm 6 phiên chỉ đạo hoạt động của các bộ. Ở địa phương, Đàng Ngoài được chia thành 12 trấn, dưới trấn là phủ, huyện, châu, xã. Lực lượng quân đội họ Trịnh được tổ chức chặt chẽ, bao gồm một đội quân thường trực gọi là quân Tam Phủ và ngoại binh được tuyển từ 4 trấn xung quanh kinh thành. Về phía Đàng Trong, các chúa Nguyễn không ngừng mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam nhằm củng cố quyền lực. Chính quyền Đàng Trong chia thành 12 dinh, dưới dinh là phủ, huyện, tổng, xã. Trên cơ sở đó, quân đội của chúa Nguyễn được tổ chức chặt chẽ, bao gồm quân thường trực ở trung ương và quân thuộc binh ở địa phương, được bổ sung thường xuyên và trang bị vũ khí đầy đủ. Tuy nhiên, từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, chính quyền Trịnh - Nguyễn bắt đầu cuộc nội chiến. Để phục vụ nhu cầu chiến tranh, hai thế lực phong kiến, đặc biệt là các chúa Nguyễn đã sớm có ý thức xây dựng lực lượng quân đội hoàn thiện.

12

Hữu trung bộ 10 45/thuyền 450 người Tiền trung bộ 10 45/thuyền 450 người Hậu trung bộ 10 45/thuyền 450 người Bảng 1: Thống kê số lượng thuyền và binh lính trong mỗi cơ. Nguồn: [7; tr. 186]. Tiếp đến là đội, đứng đầu là đội trưởng và có cai đội phụ quản. Số binh lính trong mỗi đội cũng giống như cấp cơ không có sự thống nhất, có đội có 300 lính, nhưng có đội chỉ 135 lính. Sự chênh lệch đó được thể hiện cụ thể như sau: Đội Thuyền Binh lính Tổng cộng Tả trung bộ 5 45/thuyền 225 người Tả kiên bộ 3 45/thuyền 135 người Hữu thủy 5 59/thuyền 295 người Tiền thủy 5 60/thuyền 300 người Bảng 1: Thống kê số lượng thuyền và binh lính trong mỗi đội. Nguồn: [7; tr. 186] Bên cạnh, quân túc vệ và quân chính quy thường trực, trong quân đội chúa Nguyễn còn có lực lượng quân đội địa phương gọi là Thổ binh [còn gọi là Tạm binh hay Thuộc binh] đông đảo. Thổ binh có nhiệm vụ bảo vệ vùng đất mới từ dinh Quảng Nam trở vào và trấn áp các lực lượng chống đối của nước Chiêm Thành, Chân Lạp ở phía Nam. Binh lính trong đội quân này không được hưởng chế độ bổng lộc, tiền lương mà chỉ được miễn trừ sưu thuế. Ngoài ra, trong quân đội chúa Nguyễn còn có các đội binh lính nhỏ dùng để sai vặt hoặc canh giữ như đội cắt cỏ ngựa, đội coi giữ từ đường, đội coi giữ các phủ, vườn, kho, lăng mộ, văn miếu,... GS. Phan Huy Lê ghi nhận trách nhiệm của các địa phương trong việc cung cấp các loại lính này như sau: “Riêng ở 6 huyện Hương Trà, Quảng Điền, Phú vang, Hải lăng, Đăng Xương, Minh Linh ở Thuận Hóa phải cung cấp lính cắt cỏ voi, cắt cỏ ngựa và lính quét dọn chuồng voi ngựa, cứ 100 suất đinh lấy 2 suất lính, 50 suất đinh lấy 1 suất lính, xã nào dưới 50 đinh phải nộp tiền thay mỗi người 30 đồng tiền” [16; tr. 132]. Những binh lính này đều được triều đình trả lương hàng tháng giống như quân đội chính quy thường trực. Về binh chủng, quân đội chúa Nguyễn bao gồm bộ binh, thủy binh, pháo binh, tượng binh. Trong đó, bộ binh, thủy binh là những binh chủng được các chúa

13

Nguyễn chú trọng phát triển, trang bị đầy đủ các loại vũ khí và thường xuyên tổ chức luyện tập, rèn luyện kĩ năng chiến đấu. Lực lượng thủy binh rất mạnh, từng đẩy lùi chiến hạm của Hà Lan. Thuyền chiến thời kỳ này cũng khá lớn, mỗi thuyền có thể được trang bị đến 30 mái chèo. Thuyền được chế tạo rất tinh xảo, trang bị vũ khí đầy đủ với ba khẩu đại bác ở mũi và hai khẩu hai bên, luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Xét về số lượng so với Đàng Ngoài số lượng thuyền chiến ở Đàng Trong ít hơn nhưng độ thiện chiến không hề thua kém. Trên cơ sở phát triển thủy quân, các chúa Nguyễn cho tổ chức các đội thủy binh ở vùng hải đảo để làm nhiệm vụ trông coi, bảo vệ như đội Hoàng Sa, Bắc Hải... Đội Hoàng Sa được thành lập dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Theo ghi chép của Lê Quý Đôn trong Phủ Biên tạp lục, ta biết được cách thức tổ chức của đội Hoàng Sa “Lúc đầu chúa Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất lấy người xã An Vĩnh sung vào” [7; tr. 123]. Đội này hoạt động chủ yếu ở vùng biển miền Trung có nhiệm vụ tuần tra, thu lượm các sản vật từ các tàu đắm, các hải sản quý từ các vùng biển phía Bắc quần đảo Hoàng Sa. Ngoài đội Hoàng Sa còn có đội Bắc Hải, thành lập khoảng cuối thế kỷ XVII, hoạt động chủ yếu ở phía Nam của Biển Đông, có nhiệm vụ tuần tra bảo vệ vùng biển từ Hoàng Sa đến Hà Tiên. Những người trong đội quân Bắc Hải không tính bao nhiêu suất, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi và được miễn tiền sưu tiền tuần đồn. Chính nhờ lực lượng đội thuyền này mà năm 1643, Nguyễn Phúc Tần mới có thể kịp thời đem thủy quân đánh đuổi tàu chiến của phương Tây. Trong quân đội các chúa Nguyễn còn có các đội pháo binh và tượng binh. Năm 1653, “chúa Nguyễn tổ chức 4 đội pháo cơ, mỗi cơ có 6 thuyền với số lượng lên tới 1000 người” [16; tr. 162]. Hàng năm các chúa Nguyễn thường tổ chức những buổi thao diễn chung cho cả bộ binh, thủy binh, tượng binh, lập ra những trường bắn, trường tập voi, tập ngựa để cho binh lính luyện tập. Nhờ đó, quân đội chúa Nguyễn ngày càng hoàn chỉnh hơn. 1.2. Phép kén chọn và cách luyện tập Để có được đội quân mạnh, chúa Nguyễn đã cố gắng trong việc xây dựng chính sách tuyển chọn thuyền, ngựa cũng như binh lính một cách nghiêm ngặt.

Chủ Đề