Nhà thơ nào trước Cách mạng tháng 8 luôn gần với nỗi sầu văn kỉ

Xuân Diệu [1916-1985] là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất trong phong trào Thơ Mới những năm 1935-1945. Bên cạnh là một thi sĩ, ông còn là nhà báo, nhà phê bình văn học nổi tiếng. Nhắc đến Xuân Diệu là nhắc đến "ông hoàng của thơ tình Việt Nam'. Những tác phẩm thơ của ông được nhiều người mến mộ, cũng như có vị trí nhất định trong văn đàn thơ ca nước nhà. Người ta tìm đến thơ ca, là để tìm thấy sự đồng điệu, sự ngân cảm trong tâm hồn con người. Thơ của Xuân Diệu như những dòng chảy tâm tình, dạt dào, bao la, rạo rực. Cũng như bao nhà thơ khác trong Thơ Mới, thơ của Xuân Diệu có những nỗi buồn chất chứa, sâu lắng trong từng con chữ. Thế nhưng, ông có một điểm khá đặc biệt và nổi trội hơn hẳn, đó chính là sự nhận thức, ý thức về không gian, thời gian, lí tưởng sống: sống nhanh, sống có ý nghĩa. Trong bài thơ "Vội vàng", ông cũng đã từng thổ lộ:

"Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất".

Sự ý thức, nhận thức về thời gian, về cuộc đời ấy ở Xuân Diệu, đã khiến cho thơ của ông mang màu sắc riêng, nét đẹp riêng. Dẫu rằng thời gian có trôi đi, năm tháng có dần phai mờ từng nét mực, thì những tiếng lòng tha thiết của Xuân Diệu vẫn mãi còn đó, còn sống mãi trong lòng độc giả bao thế hệ mai sau. Và quả thật không ngoa chút nào, khi Hoài Thanh, Hoài Chân - nhà phê bình văn học, đã nhận xét về ông: "Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới"

"Hôm nay trời nhẹ lên cao, Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn... Lá hồng rơi lặng ngỏ thuôn Sương trinh rơi kín từ nguồn yêu thương"

[Chiều]

Một số tác phẩm nổi tiếng: Vội vàng; Lời kĩ nữ; Đây mùa thu tới,....

Nhà thơ Xuân Diệu - ông hoàng của thơ tình Việt Nam

Xuân Diệu

Giới thiệu về nhà thơ Huy Cận

Huy Cận tên khai sinh là Cù Huy Cận, là bạn tri kỉ của nhà thơ Xuân Diệu, cặp thi sĩ này hầu như luôn đồng hành với nhau suốt những chặng đường thơ, kể từ khi phong trào Thơ mới nở rộ. Nhà thơ xứ Nghệ chắc chắn đã hấp thụ được tinh hoa văn hóa, tinh thần của quê hương xứ sở mình – một vừng đất “địa linh nhân kiệt”, từ xưa lừng danh bởi đã sản sinh ra nhiều nhân tài cho đất nước.

Nếu như chất thơ phóng lãng, cao diệu và kì tuyệt thuộc về các thi nhân đất Nghĩa Bình, và chất thơ lãng mạn của cả “kẻ chợ” lẫn “người quê” thuộc về các thi nhân xứ Bắc, thì chất thơ “nục nạc” như đất thịt, mạnh mẽ, chân thực như lưỡi cày xới đất, và hàm chứa nhiều ý tưởng thâm trầm, đã tụ lại ở nhà thơ xứ Nghệ Huy Cận. So với Xuân Diệu – người có thiên hướng rõ rệt về thơ tình và trở thành ông hoàng của thơ tình thì Huy Cận là nhà thơ có bút lực vạm vỡ với những mảng đề tài khá đa dạng, phong phú, trong đó có cả thơ tình.

Phong cách thơ Huy Cận.

Sự nhận thức sâu sắc những giá trị vật chất và văn hoá, tinh thần của quê hương xứ sở, với nhãn quan hiện đại của một nhà thơ thế kỉ XX, đã khiến thơ Huy Cận có một bề thế vững chãi, sự súc tích về nội dung, đồng thời có một phong cách nghệ thuật thật đằm, thật mực thước.

Về nội dung: thơ Huy Cận chia thành hai giai đoạn, trước Cách mạng tháng Tám và sau Cách mạng tháng Tám:

Trước Cách mạng tháng Tám: Thơ ông mang một nỗi u buồn, nỗi sầu về kiếp người nhỏ bé, trôi nổi giữa dòng đời vô định. Đồng thời, ông cũng ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật, ngầm ẩn tấm lòng với đất nước “Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca”, …

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.

[Tràng Giang]

Sau Cách mạng tháng Tám: Hồn thơ ông trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động. Những chuyển biến đó được thể hiện trong “Trời mỗi ngày lại sáng”, “Đất nở hoa”, “Bài thơ cuộc đời”…

“Cha dậy đi cày trâu kịp vụ
Hút vang điếu thuốc khói mù bay ”

[Sớm mai gà gáy]

Về nghệ thuật: Huy Cận là một hiện tượng lạ, ở tâm hồn nhà thơ là sự đan xen giữa cũ và mới: một đứa con của thi pháp Thơ mới nhưng trong huyết quản vẫn chung dòng máu thơ cổ điển. Mặc dù ngòi bút của Huy Cận đã sáng tác bằng thi pháp thơ tượng trưng nhưng vẫn còn chịu ảnh hưởng thơ cổ điển, ở nhiều phương diện như: thi liệu, thi hứng và cả thi pháp.

Đọc thơ Huy Cận ta vẫn bát gặp những mô tip đề tài quen thuộc của thơ cổ điển như mối quan hệ: con người – dòng đời; con người – vũ trụ. Cảm hứng nổi bật nhất trong thơ Huy Cận là nỗi sầu vũ trụ và nỗi sầu nhân thế, tất cả đều được khơi nguồn từ những nguồn thơ cổ điển. Ngoài ra Huy Cận còn sử dụng những phương thức nghệ thuật cổ điển như thể thơ thất ngôn Đương luật, những hình ảnh tượng trưng, ước lệ, thậm chí là những ý thơ của người xưa.

Mặc dù vậy, ngòi bút thơ của Huy Cận lại không ngừng cách tân, đổi mới để hiện đại hóa thi pháp. Huy Cận sáng tác bàng những suy tư, nghiền ngẫm, trầm mặc sâu sắc. Lời thơ Hụy Cận chứa đựng nhiều ăn ý có tính trừu tượng, tính khái quát và mang ý vị triết học,

Huy Cận với công cuộc hiện đại hóa văn học dân tộc.

Nhà thơ Huy Cận là đại điện tiêu biểu cho các thi nhân Việt Nam trong phong trào Thơ mới [1930-1945] và là cây đại thụ của nền thơ cách mạng Việt Nam. Bên cạnh đó ông cũng là nhà quản lí có nhiều đóng góp vào việc thúc đẩy phong trào sáng tác văn học nghệ thuật phát triển. Cung với vốn văn hóa sâu rộng, năng lực xúc cảm, suy nghĩ phong phú và quan điểm nghệ thuật rõ ràng, Huy Cận đã góp vào thi đàn một tiếng thơ có hương sác riêng, làm rạng rỡ diện mạo tâm hồn dân tộc. Và cũng chỉ có một số ít nhà thơ như Huy Cận, Tản Đà, Thế Lữ, Chế Lan Viên… chúng ta nhận thấy có những trăn trở, tìm kiếm, thám hiểm vào địa hạt của tư tưởng. Họ đã lượm được những viên ngọc – những chất liệu quý giá mà loài người, xưa cũng như nay, vẫn dùng chúng để đúc nên cả tòa lâu đài văn hóa tư tưởng vô cùng tráng lệ, mà giá trị của chúng trường cửu theo thời gian.

Thành công và giới hạn:

Thành công: Huy Cận là một nhà thơ lớn của Việt Nam, có công với văn học nghệ thuật dân tộc. Đó là điểm son đáng ghi nhớ về ông. Trong phong trào Thơ mới, khi Huy Cận xuất hiện, sau những nhà thơ khởi đầu lừng tiếng như: Huy Thông, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu… thì Thơ mới hoàn toàn làm chủ thi đàn. Huy Cận như một ngôi sao sáng mới và ngôi sao ấy không lóe sáng rất đẹp rồi tắt, hoặc sáng ở một thời điểm, mà sáng suốt cả một đời người dâng hiển cho thơ.

Những tác phẩm của nhà thơ Huy Cận sẽ mãi luôn khắc sâu trong tim mỗi độc giả yêu thơ. Và cái tên “Huy Cận” sẽ mãi được nhắc đến với sự yêu mến vô hạn của mọi người dành cho một tác giả luôn trải lòng mình với đời.

Huy Cận tham gia cách mạng từ những ngày trước Cách mạng tháng Tám, trong hơn 60 năm cầm bút, ông đã sáng tác nhiều bài thơ hay về cách mạng, kháng chiến, về cuộc sống mới. Huy Cận có những tập thơ chính: “Lửa thiêng” [1940], “Kinh Cầu tự” [1942], “Vũ trụ ca” [1943], “Trời mỗi ngày lại sảng” [1958], “Đất nở hoa” [1960], “Những năm sáu mươi” [1968], “Cô gái Mèo” [1972], “Chiến trường gần chiến trường xa” [1973], “Ngày hằng sống ngày hàng thơ” [1975], “Ngôi nhà giữa nắng” [1978]. Ông đã được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn hóa nghệ thuật.

Hạn chế: Đâu đó trong thơ Huy Cận vẫn còn những hạn chế nhất định, quá cầu kì trong khuôn sáo cổ điền, những hình ảnh thơ đôi khi quá xa rời thực tế cuộc sống.

Huy Cận bắt đầu có thơ đăng báo từ năm 1936, tức là lúc tuổi đời còn rất trẻ, đang học tú tài ở Huế. Năm 19 tuổi, Huy Cận xuất bản tập thơ đầu tay “Lửa thiêng” và trở thành một trong những tên tuổi xuất sắc của phong trào Thơ Mới [1932-1942]. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Huy Cận liên tiếp xuất bản 25 tập thơ thể hiện niềm vui và niềm tự hào trước cuộc sống mới của nhân dân, đất nước. Huy Cận đã có những đóng góp xuất sắc vào tiến trình phát triển thơ ca hiện đại Việt Nam.

Huy Cận bắt đầu có thơ đăng báo từ năm 1936, tức là lúc tuổi đời còn rất trẻ, đang học tú tài ở Huế. Năm 19 tuổi, Huy Cận xuất bản tập thơ đầu tay “Lửa thiêng” và trở thành một trong những tên tuổi xuất sắc của phong trào Thơ Mới [1932-1942]. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Huy Cận liên tiếp xuất bản 25 tập thơ thể hiện niềm vui và niềm tự hào trước cuộc sống mới của nhân dân, đất nước. Huy Cận đã có những đóng góp xuất sắc vào tiến trình phát triển thơ ca hiện đại Việt Nam.

Dấu mốc thứ nhất là những đóng góp của ông trong phong trào Thơ Mới với ý nghĩa là một cuộc cách mạng trong thi ca, mở đầu cho sự phát triển của thơ ca hiện đại. Huy Cận nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới bắt đầu từ bài thơ Chiều xưa đăng trên Báo Ngày nay của Tự lực văn đoàn. Nguyên văn bài thơ:

Huy Cận đã có công trong việc nâng cấp thể thơ lục bát lên một khả năng biểu đạt và biểu cảm hoàn toàn mới mẻ trong Thơ Mới bằng sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn và tinh tế chất cổ điển Đường thi, cùng với những sáng tạo mới về cấu trúc ngôn ngữ, hình ảnh mang tinh thần thời đại [ảnh hưởng văn học Pháp].

Bài thơ Chiều xưa, cùng với những bài lục bát toàn bích khác như Buồn đêm mưa, Ngậm ngùi…, được đưa vào tập Lửa thiêng, tập hợp 50 bài thơ in báo từ năm 1939-1940. Chiều xưa, Buồn đêm mưa, Ngậm ngùi cũng nằm trong số những bài thơ quen thuộc và hay nhất trong Lửa thiêng, thể hiện được “điệu hồn” thơ Huy Cận trước cách mạng: Buồn, cô đơn, ảo não, một nỗi buồn tràn ngập không gian vũ trụ:

Xét trên phương diện đổi mới thi ca, Thơ Mới trước hết là một cuộc “nổi loạn”, một sự “phá phách” để đoạn tuyệt với những khuôn phép gò bó của “thơ cũ”, nhất là thơ luật, để giải phóng cho cảm hứng, đi tìm nhịp điệu cho trái tim của cái “tôi”. Việc tự do đi tìm nhịp điệu cho cái “tôi”, tự do bộc lộ nhu cầu của tâm hồn bằng một hình thức thơ linh hoạt nhất đã đưa đến “Một thời đại trong thi ca”, mà theo như Hoài Thanh: “Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên… và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”. “Ảo não” như Huy Cận là sự “định danh” xác đáng về thơ Huy Cận trong Thơ Mới. Là vì Lửa thiêng tràn ngập nỗi buồn, cô đơn, sầu não, “sầu từ vạn cổ”, bao trùm lên cả mênh mông vũ trụ, xa thẳm thời gian, trở thành “nỗi hiu hắt trong cõi trời”, “một linh hồn trời đất” hay “cái sầu của vũ trụ” [Xuân Diệu, tựa tập “Lửa thiêng”]:

Chính Huy Cận cũng đã tự nhận rằng: “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm”. Nhà phê bình Hoài Thanh gọi Huy Cận là “Người đã gọi dậy cái hồn buồn của Đông Á, người đã khơi lại cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này”. Buồn, sầu, cô đơn, đìu hiu xa vắng trong Lửa thiêng đến từ hư vô, từ tạng chất tâm hồn, đến từ cảm quan về cuộc đời và từ những biến động của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX. Nếu Xuân Diệu là cái tôi rạo rực, đắm say, vồ vập, cuống quýt trước thanh âm cuộc đời, “là nguồn sống dào dạt ở chốn nước non lặng lẽ này” [Hoài Thanh], thì Huy Cận đắm chìm trong “mộng”, trong cái mênh mông, vô biên của vũ trụ, của thời gian, đầy chất suy tư, triết lý.

Nhà thơ Huy Cận [hàng đầu, thứ hai bên phải sang] và các nhà thơ thời thơ mới. Ảnh tư liệu

Chính vì vậy, về hình thức thơ, nếu Xuân Diệu xuất hiện trong Thơ Mới với “y phục thơ tối tân”, rất Tây, thì Huy Cận bên cạnh sự tiếp thu, ảnh hưởng của thơ Pháp còn thấm đẫm chất Đường thi, thấm đẫm mạch nguồn thơ ca truyền thống. Từ khi Lửa thiêng xuất bản ghi danh Huy Cận vào số những nhà thơ xuất sắc của phong trào Thơ Mới, đã có hàng trăm công trình nghiên cứu lớn nhỏ, đều nhất quán trong việc khẳng định tài năng xuất chúng của Huy Cận, khẳng định giá trị, vẻ đẹp toàn bích của Lửa thiêng trên các phương diện như cảm hứng thời đại, cảm hứng cô đơn của con người với nỗi sầu vũ trụ, nỗi buồn thế kỷ, tình yêu thiên nhiên, tình yêu quê hương, đất nước, yêu tiếng nói dân tộc, và nỗi suy tư về cuộc đời… Lửa thiêng là “giọng điệu triết lý về cuộc đời, về con người và về vũ trụ của tôi”. Chính chất triết lý trong thơ Huy Cận đã nâng cấp cho Thơ Mới. Huy Cận đã góp phần vào sự phát triển của thơ ca hiện đại cùng với những đổi mới về nội dung, hình thức nghệ thuật và ở sự gia tăng chất triết lý cho thơ.

Từ trái sang phải: Xuân Diệu, Tố Hữu và Huy Cận - năm 1946. Ảnh tư liệu

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Huy Cận cũng như Xuân Diệu hay một số nhà thơ mới khác, mở lòng ra đón không khí cuộc sống mới, đất trời mới, nhanh chóng hòa mình vào cuộc sống của nhân dân, đất nước. Những tập thơ với tiêu đề tươi sáng, lạc quan, tràn đầy sự sống đã được xuất bản liên tục: “Trời mỗi ngày lại sáng” [1958], “Đất nở hoa” [1960], “Bài thơ cuộc đời” [1963], “Chiến trường gần đến chiến trường xa” [1973], “Ngày hằng sống, ngày hằng thơ” [1975], “Ngôi nhà giữa nắng” [1978], “Hạt lại gieo” [1984]. Quả thực, chỉ nhìn vào tên mỗi tập thơ cũng đã thấy được một tinh thần mới trong thơ Huy Cận. Giờ đây, cái “tôi” ấy đã từ bỏ tháp ngà của những nỗi “sầu miên thảo” trở về với cuộc đời rộng lớn, hòa cùng nhịp sống với con người mới và cuộc đời rộng lớn. Đề tài lao động, sản xuất, chiến đấu đi vào thơ Huy Cận tự nhiên, chân thực với một tâm thế và cảm quan tươi sáng. Không còn là “mộng”, “mộng ảo”, “mơ ước hão” trước kia, cuộc sống ùa vào thơ ông là đời thực, sôi động của nhân dân, đất nước, của những năm tháng khó khăn nhưng đầy tin yêu, lạc quan. Những băn khoăn trước đây của “chàng Huy Cận” trong Thơ Mới:

đến giai đoạn này đã có câu trả lời thỏa đáng bằng những câu thơ về cuộc sống ấm áp, căng tràn sự sống:

Huy Cận hay viết về mưa. “Mưa xưa”, trong Lửa thiêng hiu hắt thê lương, giọt mưa là giọt sầu, mưa rơi là sự nối dài của “trăm muôn giọt lệ”. “Mưa nay” là mưa xuân, là tươi mát, là gieo sự sống “mưa xuân tươi tốt cả cây buồm”.

Tiếng gà gáy là âm thanh hay được Huy Cận chú ý. Nếu “tiếng gà xưa” xa vắng, hoang lạnh:

thì tiếng gà nay:

Nếu trước cách mạng, nhà thơ cảm thấy cô đơn rợn ngợp trước không gian vũ trụ mênh mông, hoang vắng: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” thì sau cách mạng, vẫn là cảm hứng vũ trụ, nhưng là để khẳng định tư thế mới của con người làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời

Nhà thơ Vũ Quần Phương [Hội nhà văn Việt Nam] trả lời PV Báo Hà Tĩnh bên lề Hội thảo Khoa học "Nhà thơ, nhà văn hóa Huy Cận - Những điều còn mãi".

Khác với người bạn thơ thân thiết, người bạn đồng hương đồng quận Xuân Diệu, phải đến 1958, nghĩa là 13 năm sau, Huy Cận mới xuất bản tập thơ đầu tiên. Điều này cho thấy, thơ Huy Cận sau cách mạng là kết quả của những cảm quan nghệ thuật mới về cuộc đời, con người đã được đúc kết, chắt lọc qua một quá trình trải nghiệm và thâu nhận chất liệu của cuộc sống mới. Cả trong hai giai đoạn sáng tác trước và sau cách mạng, nếu đọc kỹ sẽ thấy, thơ Huy Cận vẫn là nhất quán trong một mối quan tâm chung về cuộc đời và con người, như ông đã nói: “Dòng thơ tôi luôn nhất quán, đó là thơ của cuộc đời, của con người”. Về hình thức biểu đạt, thơ Huy Cận được tiếp nguồn từ mạch chảy của thơ ca truyền thống, mang vẻ đẹp cổ điển, hàm súc, dung dị, mộc mạc, dễ đi vào lòng người.

Vẻ đẹp, tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước là dòng mạch xuyên suốt trong thơ Huy Cận. Chưa bao giờ rời xa sự sống, nhân sinh, thiên nhiên, quê hương, đất nước, ông đến với cuộc đời và thơ bằng một tấm lòng chân thật, một trí tuệ lớn và một vốn hiểu biết phong phú về nhiều lĩnh vực. Hành trình sáng tác 70 năm của Huy Cận, vắt qua gần hết những mốc lớn trong quá trình phát triển của thơ Việt Nam hiện đại đã đóng góp quan trọng vào tiến trình phát triển ấy. “Rồi một ngày kia giã cõi này/ Xin cho gieo hết hạt trong tay”, tâm nguyện ấy của Huy Cận đã được hoàn thành bằng những nhiệm vụ lớn mà ông đã làm.

Từ trái qua phải: Huy Cận và Xuân Diệu tại Sài Gòn - năm 1940; Nhà thơ Huy Cận nói chuyện với Đoàn văn công tỉnh Hà Tĩnh tại xã Thạch Linh, tháng 2/1971; Nhà thơ Huy Cận đồng chủ tịch Đại hội Nhà văn Á - Phi tại Cairo [Ai Cập], tháng 2/1962.

bài: Nguyễn Thị Nguyệt - Phó TBT Tạp chí Hồng Lĩnh

Ảnh: tư liệu - video: Lê Tuấn

thiết kế: huy tùng

3:29:05:2019:06:24

Video liên quan

Chủ Đề