Nghị định hướng dẫn Luật tổ chức chính quyền địa phương

Luật Tổ chức chính quyền địa phương được Quốc hội ban hành ngày 19/6/2015. Luật này đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp và các chủ trương, định hướng của Đảng về chính quyền địa phương, tạo hành lang pháp lý quan trọng cho tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương các cấp. Qua hơn 3 năm triển khai thực hiện, bên cạnh các kết quả đã đạt được, một số quy định của Luật này đã bộc lộ sự bất cập, cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Ngày 22/11/2019, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ số 76/2015/QH13 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 77/2015/QH13, trong đó Luật Tổ chức chính quyền địa phương có rất nhiều điểm mới đáng chú ý.

Trước đây, tại Khoản 1 Điều 4 Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định: Cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tại Điều 2 của Luật này. Tuy nhiên Luật mới đã sửa đổi quy định này như sau: Chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tại Điều 2 của Luật này phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.. Hiện nay theo Nghị quyết số 97/NQ-QH14 ngày 27/11/2019 của Quốc hội về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội thì từ ngày 01/7/201 Thành phố Hà Nội sẽ thí điểm không còn HĐND phường, chỉ có UBND phường. Quy định mới này của Luật sẽ tạo sự linh hoạt trong tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương.

Về phân cấp, phân quyền, Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 đã quy định các nội dung mang tính nguyên tắc về phân định thẩm quyền, phân quyền, phân cấp, ủy quyền đối với chính quyền địa phương nhưng chưa quy định cụ thể về việc đảm bảo các nguồn lực để thực hiện. Do đó, Luật mới đã quy định rõ việc phân quyền, phân cấp cho các cấp chính quyền địa phương phải bảo đảm điệu kiện về tài chính, nguồn nhân lực và các điều kiện cần thiết khác; gắn phân quyền, phân cấp với cơ chế kiểm tra, thanh tra khi thực hiện phân quyền, phân cấp. Chính quyền địa phương thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được phân quyền, phân cấp và chịu trách nhiệm trong phạm vi được phân quyền, phân cấp. Việc phân quyền cho các cấp chính quyền địa phương phải được quy định trong luật. Trong trường hợp này, luật phải quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể mà chính quyền địa phương không được phân cấp, ủy quyền cho cơ quan nhà nước cấp dưới hoặc cơ quan, tổ chức khác. Ngoài ra, Luật cũng quy định cụ thể: Trong trường hợp cần thiết, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 12 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương, cơ quan hành chính nhà nước cấp trên có thể ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp, Ủy ban nhân dân có thể ủy quyền cho cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp hoặc đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc, Chủ tịch Ủy ban nhân dân có thể ủy quyền cho Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp, người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong khoảng thời gian xác định kèm theo các điều kiện cụ thể. Việc ủy quyền phải được thể hiện bằng văn bản. Như vậy, có thể thấy Luật mới đã sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định rõ hơn, cụ thể hơn để tránh việc phân cấp, ủy quyền tràn lan, làm giảm hiệu lực quản lý trong thực hiện nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Về số lượng đại biểu HĐND các cấp, Luật sửa đổi theo hướng giảm số lượng Đại biểu Hội đồng. Cụ thể đối với Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc trung ương có từ 01 triệu dân trở xuống được bầu 50 đại biểu; có trên 01 triệu dân thì cứ thêm sáu mươi nghìn dân được bầu thêm một đại biểu nhưng không quá 85 đại biểu [trước là 95 đại biểu]; Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh có 95 đại biểu [trước là 105 đại biểu]. Hội đồng nhân dân các tỉnh miền núi, vùng cao có từ 500.000 dân trở xuống được bầu 50 đại biểu; từ 500.000 dân trở lên có tối đa 75 đại biểu [trước là 85 đại biểu], HĐND các tỉnh còn lại có từ 01 triệu dân trở xuống được bầu 50 đại biểu; từ 01 triệu dân trở lên được bầu không quá 85 đại biểu [trước là 95 đại biểu]. Hội đồng nhân dân các huyện miền núi, vùng cao, hải đảo có từ 40.000 dân trở xuống được bầu 30 đại biểu; trên 40.000 dân được bầu tối đa 35 đại biểu [trước là 40 đại biểu], HĐND các huyện còn lại có từ 80.000 dân trở xuống được bầu 30 đại biểu; trên 80.000 dân được bầu tối đa 35 đại biểu [trước là 40 đại biểu]. HĐND các xã miền núi, vùng cao và hải đảo có từ hai nghìn dân trở xuống được bầu mười lăm đại biểu; có trên hai nghìn dân đến dưới ba nghìn dân được bầu mười chín đại biểu [trước là 25 đại biểu]; HĐND các xã miền núi, vùng cao và hải đảo có từ ba nghìn dân đến bốn nghìn dân được bầu hai mươi mốt đại biểu; có trên bốn nghìn dân thì cứ thêm một nghìn dân được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá ba mươi đại biểu [trước là 35 đại biểu].

Về cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân các cấp, Luật mới đã sửa đổi theo hướng giảm số lượng phó chủ tịch HĐND cấp tỉnh và cấp huyện. Đối với HĐND cấp tỉnh, theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 bao gồm 02 Phó chủ tịch HĐND, tuy nhiên hiện nay quy định này được sửa đổi như sau: Trường hợp Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách thì có một Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân; trường hợp Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động không chuyên trách thì có hai Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân. Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh là đại biểu Hội đồng nhân dân hoạt động chuyên trách. Tương tự số lượng Phó chủ tịch HĐND, đối với các Phó ban HĐND thì trường hợp Trưởng ban hoạt động chuyên trách thì có 1 Phó ban. Trường hợp Trưởng ban hoạt động không chuyên trách thì có 02 Phó ban. Đối với HĐND cấp huyện, Luật mới cũng quy định chỉ bao gồm 01 Phó chủ tịch HĐND thay vì 02 Phó Chủ tịch như HĐND trước đây.

Về cơ cấu tổ chức của UBND cấp xã, Luật hiện hành quy định cấp xã loại II có 01 Phó Chủ tịch, tuy nhiên Luật mới đã sửa đổi theo hướng tăng số lượng Phó Chủ tịch UBND xã loại II lên không quá 02 Phó Chủ tịch.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ số 76/2015/QH13 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 77/2015/QH13 sẽ có hiệu lực từ ngày 01/7/2021./.

Thiều Chiên

Video liên quan

Chủ Đề